Campuchia

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Vương quốc Campuchia

Flag of Cambodia.svg Royal arms of Cambodia.svg
Quốc kỳ Huy hiệu
Bản đồ
Vị trí của Campuchia
Vị trí Campuchia (xanh) trên thế giới
Vị trí của Campuchia
Vị trí Campuchia (xanh) trong khu vực Đông Nam Á (xám đậm)
Tiêu ngữ
ជាតិ សាសនា ព្រះមហាក្សត្រ។
Tiếng Khmer: "Tổ quốc, Tôn giáo, Nhà vua"
Quốc ca
Nokoreach
Vương quốc huy hoàng
Hành chính
Chính phủNhà nước đơn nhất
Quân chủ lập hiến tuyển cử hệ thống đại nghị
Quốc vươngNorodom Sihamoni
Thủ tướngHun Sen
Chủ tịch Thượng việnSay Chhum
Chủ tịch Quốc hộiHeng Samrin
Lập phápNghị viện:
Thủ đôPhnôm Pênh
11°33′B 104°55′Đ / 11,55°B 104,917°Đ / 11.550; 104.917
Thành phố lớn nhấtPhnom Penh
Địa lý
Diện tích181.035 km² (hạng 88)
Diện tích nước2,5% %
Múi giờICT (UTC+7)
Lịch sử
Hình thành
68–550Vương quốc Phù Nam
550–706Vương quốc Chân Lạp
802–1431Đế quốc Khmer
9 tháng 11 năm 1953Độc lập từ Pháp
23 tháng 10 năm 1991Hiệp định Hoà bình Paris
24 tháng 9 năm 1993Khôi phục chế độ quân chủ
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Khmer
Tôn giáoPhật giáo Nam tông (chính thức)
Dân số ước lượng (2016)15.762.370[1] người (hạng 65)
Dân số (2020)16.612.558 người
Mật độ94 người/km² (hạng 118)
Kinh tế
GDP (PPP) (2017)Tổng số: 64,405 tỉ USD[2]
Bình quân đầu người: 4.022 USD[2]
GDP (danh nghĩa) (2017)Tổng số: 20,953 tỉ USD[2]
Bình quân đầu người: 1.308 USD[2]
HDI (2015)0,563[3] trung bình (hạng 143)
Hệ số Gini (2011)31,8[4] trung bình
Đơn vị tiền tệRiel (KHR)
Thông tin khác
Tên miền Internet.kh
Mã điện thoại855
Lái xe bênphải

Campuchia (tiếng Khmer: កម្ពុជា, Kampuchea, IPA: [kɑmpuˈciə], tên chính thức: Vương quốc Campuchia, tiếng Khmer: ព្រះរាជាណាចក្រកម្ពុជា), cũng còn gọi là Cao Miên hay Cam Bốt (theo tiếng Pháp: Cambodge, hay tiếng Anh: Cambodia),[5] là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương ở vùng Đông Nam Á.

Campuchia giáp với vịnh Thái Lan ở phía tây nam, Thái Lan ở phía tây bắc, Lào ở phía đông bắc và Việt Nam ở phía đông. Năm 2019, Campuchia có 16 triệu người. Ngôn ngữ chính thức của Campuchia là tiếng Khmer, là ngôn ngữ thuộc nhóm Môn-Khmer trong hệ Nam Á.

Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Tên gọi Campuchia bắt nguồn từ tên gọi "Kambuja" của vương quốc ra đời năm 802, do vua Jayavarman II lập sau khi hợp nhất các hoàng tử Khmer của vương quốc Chenla đang gây chiến với nhau.[6]

Trước thế kỷ XX, người Việt gọi nước này là Chân Lạp (chữ Hán: 真臘)[7], Cao Miên (高棉),[8] hoặc Cao Man.[9]

Tên gọi "Chân Lạp" được dùng để chỉ nước Campuchia thời hậu Angkor, ứng với thời các chúa Nguyễn tại Việt Nam. Nhưng thật ra Chân Lạp, tên nước và người, chỉ tồn tại từ thế kỷ VI và chấm dứt vào thế kỷ IX (802). Kế tiếp thời Chân Lạp là thời Angkor với Đế quốc Khmer kéo dài đến thế kỷ XV.

"Cao Miên" là danh từ thường được dùng nhiều hơn trong lịch sử thế giới khi gọi người Campuchia hoặc các triều đại Campuchia hậu Chân Lạp cho đến ngày nay. Cao Miên có thể dùng để chỉ Đế quốc Khmer nói riêng, hoặc nước Campuchia hay người Campuchia nói chung.

Vậy nên, nếu cần áp dụng tên gọi một cách chính xác, Chân Lạp chỉ có thể áp dụng vào thế kỷ VI đến thế kỷ IX. Cao Miên mới là danh từ thông dụng để gọi nước Campuchia hay người Campuchia xưa, ít nhất là từ sau thế kỷ 9 cho đến thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp.[cần dẫn nguồn] Trong sử triều Nguyễn, do từ Cao Miên kỵ húy với tên Miên Tông của vua Thiệu Trị nên vẫn gọi tên cũ là Chân Lạp, tới năm Thiệu Trị thứ 7 mới gọi lại đúng tên Cao Miên nhưng đọc trại thành Cao Man.[9]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Bức chạm nổi mô tả quân Khmer giao chiến với quân Chăm ở đền Bayon tại Angkor
Bản đồ Đông Nam Á lục địa khoảng năm 900
Angkor Wat tại Xiêm Riệp, di sản thế giới

Nền văn minh đầu tiên được biết tại Campuchia xuất hiện vào khoảng thiên niên kỷ thứ nhất; từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIII, nền văn minh Khmer đã phát triển rực rỡ ở đây.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Phù Nam (Funan) là vương quốc cổ, tồn tại từ thế kỷ I đến thế kỷ VII, thời thịnh trị có lãnh thổ rộng lớn ở phía nam bán đảo Đông Nam Á, bao gồm Campuchia, nam Việt Nam, nam Thái Lan ngày nay. Lúc này ở khu vực Bắc Campuchia và Nam Lào có một thuộc quốc là Chân Lạp (Chenla) được hình thành từ thế kỷ V của tộc người Môn-Khmer. Vào thế kỷ VII, Chân Lạp thoát khỏi sự lệ thuộc vào Phù Nam rồi chiếm toàn bộ lãnh thổ Phù Nam.

Triều đại cầm quyền của Chân Lạp có nguồn gốc từ nhân vật thần thoại Campu, lấy nàng Naga (con gái thần nước, biến từ rắn thành thiếu nữ). Tên gọi "Campuchia", xuất hiện vào khoảng thế kỷ X, gắn với tên nhân vật này. Sau năm 707, Chân Lạp tách thành hai quốc gia Lục Chân LạpThủy Chân Lạp.

Sau hàng thế kỷ (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII) bị mất đất đai và dân số cho các quốc gia Thái LanViệt Nam thì Campuchia lại bị bảo hộ bởi Pháp trong Liên bang Đông Dương vào năm 1863. Sau sự xâm chiếm của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai thì Pháp lại quay lại. Campuchia tuyên bố độc lập vào năm 1953, trở thành một vương quốc. Năm 1960, Thái tử Norodom Sihanouk lên làm Quốc trưởng chứ không làm vua sau khi vua cha mất. Ông thi hành chính sách trung lập.

Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Chiến tranh Việt Nam (19541975), lực lượng cộng sản của Trung ương Cục miền Nam đã sử dụng những lãnh thổ biên giới Campuchia gần Việt Nam như một căn cứ địa để chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa nên Hoa Kỳ đã ném hàng loạt bom xuống các vùng cộng sản ở Campuchia. Một số nguồn ước tính số thương vong dân sự tại đây đạt tới con số 100.000 người[10]. Năm 1970, tướng Lon Nol làm đảo chính lật đổ triều đình phong kiến và lên nắm quyền tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Khmer. Chính quyền này đã bị lật đổ bởi những người theo đường lối cộng sản cực đoan là Khmer Đỏ, được Trung Quốc giúp đỡ trong năm 1975.

Khmer Đỏ cầm quyền[sửa | sửa mã nguồn]

Khmer Đỏ do Pol Pot lãnh đạo nắm được chính quyền vào năm 1975, thành lập nước Campuchia Dân chủ. Họ chiếm thủ đô Phnôm Pênh và bắt đầu lùa dân ra khỏi thành thị vào tháng 10 năm 1974, Phnôm Pênh trở thành một thành phố chết – không có cư dân sinh sống. Trong thời gian này, tiền tệ bị xoá bỏ và Khmer Đỏ thực hiện triệt để chính sách "tự cung tự cấp" – bài phương Tây và "quyết tâm xây dựng Xã hội chủ nghĩa trong vòng 6 tháng"[11]. Theo dự án Genocide Project của Đại học Yale, lao động khổ sai, bệnh tật, hành hình và "thanh trừng" đã làm khoảng hơn 1,7 triệu người đã chết trong khoảng thời gian 4 năm cải tạo xã hội của Khmer Đỏ (1975–1979)[12].

Trong những năm nắm quyền, trong nội bộ Khmer Đỏ đã có sự thanh trừng lẫn nhau mà kết quả là những người thân Cộng sản Việt Nam bị bài trừ và phải bỏ trốn sang Việt Nam. Trong thời gian này hai bên đã có những xung đột biên giới nhỏ nhưng kéo dài.

Cuối năm 1978, sau khi chính quyền Pol Pot đem quân tấn công biên giới và giết hại thường dân Việt Nam thì Hà Nội đã tổ chức chiến dịch phản công và theo yêu cầu giúp đỡ của lực lượng thân Việt Nam ở Campuchia, họ đưa quân vào Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ (7 tháng 1 năm 1979) và đưa quân tới sát biên giới phía tây với Thái Lan. Quân đội Nhân dân Việt Nam truy quét tàn quân Pol Pot qua biên giới Thái Lan 15 km khiến Ngân sách Quốc phòng Đông Nam Á tăng 10 lần-100 lần-1000 lần...

Do chiến thắng quá nhanh của quân đội Nhân dân Việt Nam, quân Khmer Đỏ chỉ tan rã chứ chưa bị tiêu diệt hoàn toàn; bản thân Campuchia không đủ lực để tự tiêu diệt Khmer Đỏ. Vì vậy trong 13 năm đóng quân tại Campuchia, quân đội Nhân dân Việt Nam đã bị lực lượng tàn quân này quấy phá gây thiệt hại khá lớn. Các cuộc chiến nhỏ lẻ tẻ diễn ra liên tục trước khi Việt Nam rút quân năm 1989Liên Hiệp Quốc hỗ trợ bầu cử năm 1993, giúp cho nước này khôi phục lại tình trạng bình thường.

Cộng hòa Nhân dân Campuchia[sửa | sửa mã nguồn]

Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày 8 tháng 1 năm 1979, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập. Tuy vậy, chính quyền này chỉ được một số nước cộng sản công nhận và chưa tự bảo vệ được mà vẫn cần đến sự có mặt của quân đội Việt Nam. Năm 1981, Cộng hòa Nhân dân Campuchia tổ chức bầu quốc hội và ban hành hiến pháp.

Trong thời gian này, Campuchia Dân chủ vẫn giữ được ghế đại diện cho Campuchia ở Liên Hiệp Quốc.

Ngày 22 tháng 6 năm 1982, Chính phủ Liên hiệp Dân chủ Campuchia do Norodom Sihanouk làm Chủ tịch, Khieu Samphon (phái Khmer Đỏ) làm Phó Chủ tịch và Son Sann (phái thứ ba) làm Thủ tướng được thành lập tại Kuala Lumpur (Malaysia).

Cờ của chính phủ Pnom Penh từ năm 1989-1991

Việt Nam đã rút quân ra khỏi Campuchia trước kế hoạch (1990) và chính phủ tại Phnom Penh chấp nhận đàm phán với Chính phủ Liên hiệp Dân chủ Campuchia. Quân đội Nhân dân Việt Nam rút khỏi Campuchia được hoàn tất ngày 26 tháng 9 năm 1989.

Sihanouk trở về[sửa | sửa mã nguồn]

Sau nhiều lần thương lượng, Hoàng thân Norodom Sihanouk đã trở về Phnôm Pênh ngày 23 tháng 11 năm 1991 sau 13 năm vắng mặt. Năm 19921993, Cơ quan Chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia (UNTAC) tạm thời quản lý Campuchia. Một cuộc tuyển cử tự do được tổ chức năm 1993 dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Quốc vương Norodom Sihanouk trở lại nắm quyền đất nước.

Chính phủl Liên hiệp được lập sau bầu cử 1998 đem lại sự ổn định về chính trị, Khmer Đỏ không tham gia mà tiếp tục chống đối. Không có ai trong số các thủ lĩnh của Khmer Đỏ bị xét xử vì những tội ác diệt chủng mà họ đã phạm trong những năm nắm chính quyền của họ.

Ngay sau đó, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia lật ngược tình thế: loại các thành phần hoàng gia chống đối rồi tiêu diệt, bắt giữ Khmer Đỏ. Hậu quả của thời kỳ Hoàng thân Sihanouk trở về là một số nơi rơi vào tình trạng vô chính phủ, nay đang được khắc phục.

Thời kỳ Vương quốc Campuchia (tái lập)[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi cuộc Tổng tuyển cử tự do được Liên Hợp Quốc đứng ra tổ chức tháng 5 năm 1993, các phe phái, chủ yếu các Đảng Nhân dân Campuchia, Đảng Bảo hoàng và đảng của Sam Rensi phải mất đến 4 tháng mới thỏa thuận được cơ cấu phân chia quyền lực. Đến tháng 9 năm 1993, Quốc hội và Chính phủ mới được thành lập với nòng cốt là FUNCIPEC và CPP. Quốc hội nhất trí lấy tên nước là Vương quốc Campuchia. Đứng đầu nhà nước là Quốc vương Norodom Sihanuk. Thủ tướng thứ nhất Norodom Ranarit (Chủ tịch Đảng FUNCIPEC), Thủ tướng thứ hai là Hun Sen (Phó Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia). Chủ tịch quốc hội là Chia Xim (CPP). Năm 1997, ông Ung Huot (FUNCIPEC) thay ông Ranarit giữ chức thủ tướng thứ nhất. Từ năm 1993 đến nay, Campuchia đã trải qua 4 lần tổng tuyển cử. Ở lần tổng tuyển cử thứ 4 năm 2008, Đảng CPP dù chiếm đa số, nhưng không thể tự mình thành lập chính phủ do không giành được tỷ lệ đa số ghế 2/3 cần thiết theo luật định. Chính vì vậy, CPP buộc phải tìm kiếm liên minh từ FUNCINPEC, trên tinh thần đoàn kết dân tộc. Sau 15 năm tái lập chế độ quân chủ lập hiến, Vương quốc Campuchia đã thu dược nhiều thành tựu lớn trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và quan hệ đối ngoại.

Campuchia mở cửa và thân thiện với thế giới, sớm gia nhập WTO. Tuy vậy, kinh tế và mức sống vẫn phát triển chậm. Tổng GDP là 3.677 triệu USD (năm 2003), GDP bình quân đầu người 280 USD (2003) trên 30% dân chúng sống dưới mức nghèo khổ. Một phần do điểm xuất phát quá thấp (gần như bằng 0 sau giải phóng 1979) và một phần do quyền lực thực tế của chính quyền chưa hoàn thiện.

Năm 1998, Pol Pot chết, lực lượng Khmer Đỏ tan rã. Tháng 6 năm 2003, Liên hợp quốc và Chính phủ Campuchia đạt được thỏa thuận về việc xét xử các thủ lĩnh Khmer Đỏ. Hai bên thống nhất lập một tòa án do các thẩm phán quốc tế và thẩm phán Campuchia cùng làm chủ tọa. Tuy nhiên, việc xét xử Khmer Đỏ diễn ra hết sức chậm chạp do những thế lực đã nâng đỡ Khmer Đỏ trước đây (Trung Quốc) cản trở. Phần lớn các nhân vật quan trọng của tổ chức này đã chết già mà không bị tòa kết án. Mãi đến cuối năm 2008, phiên tòa đầu tiên xét xử các thủ lĩnh Khmer Đỏ mới được mở. Người đầu tiên bị xét xử là Kang Kech Leu, giám đốc nhà tù S21 (Tulsleng), người đã tổ chức giết chết hàng vạn người Campuchia mà Khmer Đỏ cho là thù địch trong hơn 3 năm cầm quyền của họ.

Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Chính trị Campuchia được nhiều người nước ngoài biết đến bởi thời kỳ diệt chủng của Khmer Đỏ, việc này gây ra những đổ vỡ lớn trong nội bộ những nước đã từng ủng hộ chế độ này.

Vương quốc Campuchia hiện là một nước Quân chủ lập hiến theo hình thức quân chủ tuyển cử. Trên thực tế Quốc vương không điều hành đất nước. Vị Quốc vương được lựa chọn bởi một Hội đồng Ngai vàng Hoàng gia gồm 9 người theo Hiến pháp. Nguyên thủ đầu tiên của đất nước là Quốc vương Norodom Sihanouk sau khi ông trở lại làm vua vào tháng 9 năm 1993. Cuối tháng 10 năm 2004, Quốc vương Norodom Sihanouk thoái vị làm Thái thượng vương, Hội đồng Ngai vàng Hoàng gia đã đưa Thái tử Norodom Sihamoni lên làm tân Quốc vương.

Nghị viện Campuchia theo hệ thống lưỡng viện với cả Thượng viện (61 ghế) nhiệm kỳ 6 năm và Quốc hội (123 ghế) nhiệm kỳ 5 năm. Thể chế hiện tại của Campuchia là thể chế đại nghị hệ thống đảng phái ưu thế. Đảng cầm quyền hiện nay Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) đã nắm quyền kể từ năm 1981 và luôn chiếm đa số ghế trong cả Thượng việnQuốc hội. Thủ tướng đương nhiệm là Hun Sen thuộc Đảng Nhân dân Campuchia, đứng đầu Nội các Campuchia - cơ quan hành pháp của nước này.

Campuchia là thành viên của Liên hiệp quốcHiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Nước này đã đạt được sự ổn định tương đối về chính trị từ thập niên 1990 trở lại đây.

Quan hệ đối ngoại[sửa | sửa mã nguồn]

Quan hệ đối ngoại của Vương quốc Campuchia được điều phối bởi Bộ Ngoại giao và Hợp tác quốc tế Campuchia, đứng đầu là Bộ trưởng Prak Sokhonn.

Campuchia là thành viên của Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng thế giớiQuỹ tiền tệ Quốc tế. Nó là một thành viên của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), ASEAN, và trở thành thành viên của WTO ngày 23.10.2004. Năm 2005 Campuchia đã tham dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á khai mạc tại Malaysia. Vào ngày 23 tháng 11 năm 2009, Campuchia phục hồi lại là thành viên của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA).[13] Campuchia lần đầu tiên trở thành thành viên của IAEA vào ngày 06 tháng 02 năm 1958 nhưng đã từ bỏ vị trí thành viên của mình vào ngày 26 tháng 03 năm 2003.[14] Campuchia đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia, bao gồm 20 Đại sứ quán[15] bao gồm nhiều nước láng giềng châu Á và những đối tác quan trọng trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris, trong đó có Mỹ, Úc, Canada, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, và Nga [16] Như một kết quả của quan hệ quốc tế, tại Campuchia còn có các tổ chức nhân đạo khác nhau đã hỗ trợ các nhu cầu cơ sở hạ tầng xã hội, kinh tế và dân sự...

Xếp hạng quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Tổ chức quốc tế Khảo sát Xếp hạng Score
Ngân hàng thế giới Chỉ số thuận lợi kinh doanh (2012) 138/183 75.4%
Minh bạch Quốc tế Chỉ số nhận thức tham nhũng (2012) 164/184 89.13%
Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc Chỉ số phát triển con người (2012) 139/184 75.5%
Hội đồng Vàng Thế giới Dự trữ vàng (2010) 65/110 60%
Phóng viên không biên giới Chỉ số tự do báo chí (2012) 117/179 65.3%
Quỹ Di sản Chỉ số tự do kinh tế (2012) 102/179 57%
Báo cáo cạnh tranh toàn cầu Diễn đàn Kinh tế thế giới (2012) 97/142 68.3%
Chỉ số hòa bình toàn cầu Viện Kinh tế và Hòa Bình (2012) 108/142 68.3%
Liên Hiệp Quốc Chỉ số giáo dục (2012) 132/179 73.7%
World Development Indicators Global Internet usage (2011) 127/193 3%

Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Bản đồ hành chính Campuchia

Campuchia sau năm 2008 được chia thành 25 đơn vị hành chính địa phương cấp một gồm 24 tỉnh (ខេត្ត - khet) và 1 đơn vị hành chính đặc biệt (ក្រុង - krong) (thủ đô Phnom Penh). Các tỉnh được chia thành các huyện (hay quận) (ស្រុក - srok/ ខណ្ឌ - khan) và huyện đảo. Mỗi tỉnh lại có một quận/thành phố thủ phủ (ក្រុង - krong). Dưới huyện là các xã (ឃុំ - khum), và dưới quận là các phường (សង្កាត់ - sangkat). Phường và xã là cấp hành chính địa phương cuối cùng ở Campuchia. Trong một xã có thể có một hoặc nhiều hơn một làng, nhưng làng không phải là một cấp hành chính chính thức.

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Các vùng ở Campuchia

Diện tích Campuchia khoảng 181.035 km²[17], nằm trọn vẹn trong khu vực nhiệt đới; từ vĩ độ 10 đến vĩ độ 15N kinh độ 102 đến 108E. Đất nước có 800 km biên giới với Thái Lan về phía bắc và phía tây, 541 km biên giới với Lào về phía đông bắc, và 1.137 km biên giới với Việt Nam về phía đông và đông nam. Nước này có 443 km bờ biển dọc theo Vịnh Thái Lan.

Dãy núi Dangrek

Đặc điểm địa hình nổi bật là một vùng đồng bằng lớn nằm giữa những ngọn núi thấp bao gồm vùng hồ Tonle Sap (Biển Hồ) và vùng thượng lưu đồng bằng sông Cửu Long. Biển Hồ có diện tích khoảng 2.590 km² trong mùa khô tới khoảng 24.605 km² về mùa mưa. Đây là một đồng bằng đông dân, phù hợp cho cấy lúa nước, tạo thành vùng đất trung tâm Campuchia. Phần lớn (khoảng 75%) diện tích đất nước nằm ở cao độ dưới 100 mét so với mực nước biển, ngoại trừ dãy núi Cardamon (điểm cao nhất là 1.771 m), phần kéo dài theo hướng bắc-nam về phía đông của nó là dãy Voi (cao độ 500-1.000 m) và dốc đá thuộc dãy núi Dangrek (cao độ trung bình 500 m) dọc theo biên giới phía bắc với Thái Lan.

Khí hậu Campuchia cũng giống như khí hậu các nước Đông Nam Á khác, bị chi phối bởi gió mùa. Khí hậu khô và ẩm ướt rõ rệt theo mùa. Nhiệt độ dao động trong khoảng 21 °C - 35 °C. Campuchia có các mùa mưa nhiệt đới: gió tây nam từ Vịnh Thái Lan/Ấn Độ Dương đi vào đất liền theo hướng đông bắc mang theo hơi ẩm tạo thành những cơn mưa từ tháng 5 đến tháng 10, trong đó lượng mưa lớn nhất vào khoảng tháng 9, tháng 10; gió đông bắc thổi theo hướng tây nam về phía biển trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, với thời kỳ ít mưa nhất là tháng 1, tháng 2. Theo Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế và Liên hợp quốc, Campuchia được xem là quốc gia dễ bị tổn thương nhất của Đông Nam Á trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, cùng với Phillippines. Dân số nông thôn ven biển đặc biệt có nguy cơ cao hơn. Theo Hiệp hội Cải cách Khí hậu Cămpuchia, tình trạng thiếu nước sạch, lũ lụt cực đoan, lở đất, mực nước biển dâng cao và các trận bão có khả năng phá hoại là mối quan tâm đặc biệt.

Campuchia có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa, kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, có thể thấy nhiệt độ giảm xuống 22 °C (71,6 °F) và thường có độ ẩm cao. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 khi nhiệt độ có thể tăng lên đến 40 °C (104 °F) vào khoảng tháng 4. Lũ lụt trầm trọng xảy ra vào năm 2001 và một lần nữa vào năm 2002, với mức độ ngập lụt gần như mỗi năm.

Campuchia cũng là quốc gia có nhiều loài động vật quý hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là hổ, voibò tót khổng lồ. Rất nhiều loài đang đứng trước hiểm họa diệt chủng do nạn săn trộm và phá rừng.

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Người nông dân Campuchia

Vương quốc Campuchia đã bị tàn phá gần như hoàn toàn sau thời kỳ Polpot Khmer Đỏ, thành phố lớn nhất Phnompenh đứng lên từ một thành phố chết không một bóng người và được khôi phục với vẻ huy hoàng như ngày nay. Ảnh hưởng của chiến tranh ngoại quốc lẫn nội chiến nghiêm trọng hơn ở Việt Nam nên cho đến nay nền kinh tế vẫn còn nhiều điều bất cập, tình trạng tham nhũng lớn và luật pháp lỏng lẻo khiến cho đất nước có nhiều điều cần phải giải quyết. Tính đến năm 2016, GDP của Campuchia đạt 19.368 USD, đứng thứ 113 thế giới, đứng thứ 35 châu Á và đứng thứ 8 Đông Nam Á.

Sự phát triển của nền kinh tế Campuchia bị chậm lại một cách đáng kể trong thời kỳ 1997-1998 vì khủng hoảng kinh tế trong khu vực, bạo lực và xung đột chính trị. Đầu tư nước ngoài và du lịch giảm mạnh. Trong năm 1999, năm đầu tiên có được hòa bình thực sự trong vòng 30 năm, đã có những biến đổi trong cải cách kinh tế và tăng trưởng đạt được ở mức 5%. Mặc dù bị ngập lụt tràn lan, GDP tăng trưởng ở mức 5.0% trong năm 2000, 6.3% trong năm 2001 và 5.2% trong năm 2002. Du lịch là ngành dịch vụ tăng trưởng mạnh nhất của Campuchia, với số du khách tăng 34% trong năm 2000 và 40% trong năm 2001 trước sự kiện khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ. Mặc dù đạt được những sự tăng trưởng như vậy nhưng sự phát triển dài hạn của nền kinh tế sau hàng chục năm chiến tranh vẫn là một thách thức to lớn. Dân cư thất học và thiếu các kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt là ở vùng nông thôn nghèo đói gần như chưa có các điều kiện cần thiết của cơ sở hạ tầng. Sự lo ngại về không ổn định chính trị và tệ nạn tham nhũng trong một bộ phận chính quyền làm chán nản các nhà đầu tư nước ngoài và làm chậm trễ các khoản trợ giúp quốc tế. Chính quyền đang phải giải quyết các vấn đề này với sự hỗ trợ của các tổ chức song phương và đa phương.

Campuchia đã gia nhập tổ chức Tổ chức Thương mại Thế giới từ ngày 13 tháng 10 năm 2004.

Đầu năm 2007, nhiều nghiên cứu của Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng Thế giới, Đại học Harvard và nhiều tổ chức uy tín khác trên thế giới được công bố: cho rằng Campuchia có trữ lượng có thể lên đến 2 tỉ thùng dầu và 10.000 tỉ mét khối khí đốt[cần dẫn nguồn].

Dân cư và ngôn ngữ[sửa | sửa mã nguồn]

Campuchia là quốc gia thuần nhất về dân cư với hơn 90% dân số là người Khmer và nói tiếng Khmer, ngôn ngữ chính thức. Số còn lại là người Việt, người Campuchia gốc Hoa, người Chàmngười Thượng sống tập trung ở miền núi phía bắc và đông bắc.

Phật giáo Theravada hay còn gọi là Phật giáo nguyên thủy bị Khmer Đỏ hủy diệt đã được phục hồi là tôn giáo chính thức, với khoảng 95% dân số. Phật giáo Đại thừa Bắc tông chủ yếu tập trung trong cộng đồng người Việt và người Hoa. Hồi giáođạo Bà la môn ở các cộng đồng Chăm, Ki-tô giáo chiếm khoảng 2% dân số...

Tiếng Pháptiếng Anh được nhiều người Campuchia sử dụng như là ngôn ngữ thứ hai và thông thường là ngôn ngữ phải học trong các trường phổ thông và đại học. Nó cũng được sử dụng thường xuyên trong chính quyền. Một số lớn trí thức mới của Camphuchia được đào tạo tại Việt Nam là một thuận lợi cho quan hệ kính tế, văn hóa ba nước Đông Dương.

Cuộc nội chiến và nạn diệt chủng dưới thời Khmer Đỏ có ảnh hưởng mạnh đến cấu trúc dân số Campuchia. Độ tuổi trung bình là 20,6, với hơn 50% dân cư trẻ hơn 25 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 0.95, thấp nhất trong số các quốc gia tiểu khu vực sông Mê Kông[18]. Trong số người Campuchia độ tuổi hơn 65, tỷ lệ nữ/nam là 1,6:1.

Bên cạnh đó tiếng Việt cũng được nói nhiều ở khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia và vùng biển hồ vì có nhiều người gốc Việt sinh sống tại những khu vực này hoặc người có cha hoặc mẹ là người Việt. Một trong những nguyên do khác là người Campuchia ở vùng này học tiếng Việt để giao tiếp được với người Việt ở biên giới và để giao thương với người Việt.

Du lịch[sửa | sửa mã nguồn]

Vương quốc Campuchia là một trong những địa điểm du lịch mới và hẫp dẫn nhất trên thế giới. Sau hơn 25 năm cô lập, Campuchia mở cửa đón khách du lịch vào những năm đầu của thập niên 90 và lượng khách du lịch tăng lên qua từng năm

Những điểm du lịch hấp dẫn nhất của Vương quốc Campuchia là đền Angkor Wat và những ngôi đền thuộc quần thể Angkor thuộc tỉnh Siem Reap, cũng như các địa điểm văn hoá hẫp dẫn thuộc thủ đô Phnom Penh và những bãi biển thuộc tỉnh Sihanoukville với đầy đủ các dịch vụ cần thiết như khách sạn, nhà hàng, điểm vui chơi giải trí và một số dịch vụ du lịch khác.

Các điểm tham quan khác có thể phải kể đến vùng đồi núi thuộc tỉnh Ratanakiri và tỉnh Mondulkiri, những ngôi đền nằm biệt lập thuộc tỉnh Preah ViherdBanteay Chhmar và các khu vực kinh tế quan trọng như Battambang, Kep và Kampot là những địa danh mới được khám phá gần đây.

Campuchia là vùng đất của những cái đẹp, các ngôi đền cổ kính thuộc quần thể Angkor, đền Bayon và sự sụp đổ của đế chế Khmer luôn mang dấu ấn của sự trang trọng, hùng vĩ và chiếm vị trí trung tâm trong các kỳ quan thế giới – có thể so sánh với Machu Picchu, Kim tự tháp Ai Cập hay Vạn lý trường thành. Nhưng sự hùng vĩ này lại trái ngược với Cánh đồng chếtbảo tàng diệt chủng Toul Sleng, cũng như trái ngược với những chứng tích lịch sử cận đại của Campuchia, thời gian mà lực lượng Polpot và chế độ cực đoan Khmer Đỏ cai trị cuối những năm 1970, gây nên một trong những tội ác ghê rợn và tàn bạo nhất của thế kỷ XX.

Ngày nay, người Khmer vốn chiếm 95% dân số Campuchia đã tạo ra những ấn tượng sâu đậm cho khách du lịch, họ chính là những người thân thiện và hạnh phúc nhất mà du khách từng gặp. Nụ cười người Khmer có ở khắp nơi, như trong chuyện cổ tích và truyền thống đậm đà bản sắc riêng của dân tộc này. Campuchia vì vậy thật sự là vùng đất của sự tương phản: giữa ánh sáng và bóng tối, giữa những bản hùng ca và những bi kịch, giữa sự quặn đau tuyệt vọng và nguồn cảm hứng tương lai. Dường như đó là một đặc điểm vô song của đất nước Campuchia. Điều đó thúc đẩy bất cứ du khách nào cũng khát khao một lần đặt chân lên mảnh đất này.

Du lịch tại Campuchia tập trung chia làm 5 vùng trọng điểm.

Odong

Nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Kiến trúc của Campuchia phần lớn được biết đến nhờ vào những công trình được xây dựng từ thời Khmer cổ đại (khoảng cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII). Đạo Phật và tư duy huyền thoại có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật trang trí các công trình kiến trúc vĩ đại này.

Đặc trưng cơ bản của kiến trúc giai đoạn này là được xây dựng từ vật liệu gỗ, tre nứa hoặc rơm rạ và đá. Nhưng những gì còn lại ngày nay người ta có thể chiêm ngưỡng là các công trình bằng đá tảng như các bức tường thành, đường sá,... và các ngôi đền hoặc các con đường có những bao lơn tạc hình con rắn chín đầu, vươn cao 2–3m, xòe rộng phủ bóng xuống mặt đường. Còn hình thức chung của các ngôi đền là có đỉnh chóp nhọn, bốn mặt đền được chạm trổ các bức phù điêu miêu tả cuộc sống con người ở thế giới bên kia, hoặc cuộc sống hiện tại của người dân Campuchia bấy giờ, hay cuộc chiến với nước láng giềng vũ nữ dân gian (Ápsara) với thân hành mềm mại, cân đối đang múa khá uyển chuyển, và sự tham gia của cả những con khỉ, con ngựa trong sử thi Ramanaya của Ấn Độ.

Bên cạnh đó, hình thức khắc những ký tự hay con số cũng rất phổ biến ở công trình. Các ngôi đền thường có một cửa còn ở ba phía còn lại của đền cũng có cửa nhưng chỉ là giả, để tạo cảm giác đối xứng cho ngôi đền. Công trình có tiếng nhất ở đây là ngôi đền Bayon với 200 gương mặt của thần Avalokitesvara (một dạng của Quan Âm Bồ Tát).

Chiêm ngưỡng những công trình này, ta không thể không khâm phục sức mạnh phi thường và bàn tay tài ba của những người dân Khmer cổ đại. Kiến trúc của Campuchia cũng có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc của Thái Lan và người Chăm của Việt Nam.

Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Nền văn hóa Campuchia có lịch sử phong phú đa dạng trải qua nhiều thế kỷ và chịu ảnh hưởng nặng của Ấn Độ. Nền văn hóa Campuchia cũng gây ảnh hưởng mạnh lên Thái Lan, Lào và ngược lại. Trong lịch sử Campuchia, tôn giáo có vai trò lớn trong các hoạt động văn hóa. Trải qua gần 2000 năm, người dân Campuchia đã phát triển một tín ngưỡng Khmer độc đáo với các tín ngưỡng hỗn hợp gồm tín ngưỡng thuyết vật linh bản địa và các tôn giáo Ấn Độ như Phật giáoHindu giáo.

Ẩm thực[sửa | sửa mã nguồn]

Amok Campuchia

Ẩm thực Campuchia, cũng như thói quen ẩm thực của nhiều dân tộc thuộc nền văn minh lúa nước trong khu vực châu Á, cho thấy những đặc điểm riêng biệt. Người dân Campuchia có thói quen ăn gạo tẻ và ăn nhiều cá hơn thịt. Vào các ngày lễ tết, nông thôn cũng như thành thị đều có gói bánh tét, bánh ít. Phần lớn trong mỗi gia đình đều có mắm bồ hóc để ăn quanh năm.

Ẩm thực Campuchia ảnh hưởng phong cách mạnh mẽ của Ấn Độ và Trung Hoa, hầu hết các món ăn có vị lạt, ngọt và béo. Món ăn Ấn Độ tìm thấy hầu hết ở các gia vị được dùng chủ yếu là cay như sa tế, ớt, tiêu, nhục, hồi v.v. Món ăn Trung Hoa được tìm thấy nhiều với vị lạt và khá béo, nhiều dầu mỡ nhất là mang phong cách ẩm thực vùng Tứ Xuyên.

Âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Dàn nhạc ngũ âm và các nhạc cụ truyền thống tạo ra các tác phẩm độc đáo mang đậm phong cách giống Thái Lan và Lào tương tự nhau.

Văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Danseuses kmer (2).JPG
Royal Ballet Camboda Apsara Mera.jpg

Nổi tiếng nhất là thể loại trường ca Riêm kê là thể loại sáng tác bằng thơ ca dân gian dài hàng vạn câu. Cốt truyện chủ yếu vay mượn từ sử thi Ramayana của Ấn Độ.

Những ngày lễ chính của Campuchia[sửa | sửa mã nguồn]

Người Campuchia cũng giống như các quốc gia khác đều sử dụng Tây lịch. Tuy nhiên, trừ một số ngày lễ của người Khmer, họ sử dụng lịch Campuchia như ngày lễ Tết, lễ nhập điền hay lễ cầu hôn. Lịch Khmer có thể sớm hay muộn hơn lịch Tây tùy vào thời điểm của năm. Sự giao thoa về văn hóa và dân cư khiến cho một số ngày lễ của Campuchia có thêm một số ngày lễ như Tết Việt NamTrung Quốc, tết Đoan Ngọ,...

  • Ngày 1 tháng 1 hằng năm: Tết Tây.
  • Ngày 7 tháng 1 hằng năm: Ngày giải phóng đất nước khỏi chế độ Khmer Đỏ.
  • Ngày 15 tháng 1 (âm lịch) hằng năm: Ngày Māgha Pūjā (Lễ rằm tháng giêng).
  • Ngày 8 tháng 3 hằng năm: Ngày Quốc tế Phụ nữ.
  • Ngày 13–15 tháng 4 hằng năm: Ngày tết Chok Chnam Thmey của người Khmer.
  • Ngày 13–15 tháng 5 hằng năm: Sinh nhật nhà vua Norodom Sihamoni.
  • Ngày 15 tháng 4 (âm lịch) hằng năm: Lễ Phật Đản.
  • Ngày 1 tháng 5 hằng năm: Ngày Quốc tế Lao động.
  • Ngày 23 tháng 5 hằng năm: Ngày lễ cầu mùa Hoàng Cung.
  • Ngày 18 tháng 6 hằng năm: Ngày sinh nhật Hoàng thái hậu Norodom Moninaeth.
  • Ngày 24 tháng 9 hằng năm: Ngày Hiến pháp quốc gia.
  • Ngày 28–30 tháng 09 hằng năm: Ngày Pchum Ben (lễ báo hiếu ông bà).
  • Ngày 23 tháng 10 hằng năm: Ngày ký Hiệp định hòa bình Paris.
  • Ngày 29 tháng 10 hằng năm: Ngày nhà vua đăng quang.
  • Ngày 31 tháng 10 hằng năm: Ngày sinh nhật Thượng hoàng Norodom Sihanouk.
  • Ngày 09 tháng 11 hằng năm: Ngày Quốc khánh.
  • Ngày 11–13 tháng 11 hằng năm: Ngày lễ hội cúng trăng, đua thuyền (ghe Ngo).
  • Ngày 10 tháng 12 hằng năm: Ngày Nhân quyền Quốc tế.

Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

Tỷ lệ biết chữ ở Campuchia khoảng 77,2%, trong đó tỷ lệ nam biết chữ cao hơn nữ và thành thị cao hơn nông thôn.

Trong thời kỳ Khmer Đỏ thống trị, giáo dục Campuchia bị tàn phá nặng nề và hiện nay đang từng bước được phục hồi.

Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Circle frame.svg

Tôn giáo tại Campuchia (2010)[19]

  Phật giáo (96.9%)
  Hồi giáo (2.0%)
  Tín ngưỡng (0.6%)
  Công giáo Roma (0.4%)
  Không tôn giáo (0.2%)

Phật giáo Nguyên thủy là tôn giáo chính thức của Campuchia, được thực hành bởi hơn 95% dân số. Phật giáo là tôn giáo phổ biến và phát triển mạnh mẽ trong tất cả các tỉnh, với ước tính khoảng 4.392 đền thờ, tu viện trong cả nước.[20] Phần lớn sắc tộc Khmer theo đạo Phật, và có những hiệp hội gần gũi giữa Phật giáo, truyền thống văn hóa và cuộc sống hằng ngày. Tuân thủ Đạo Phật thường được xem là bản sắc dân tộc và văn hóa của đất nước. Tôn giáo ở Campuchia, trong đó có Phật giáo, đã bị đàn áp bởi chế độ Khmer Đỏ trong thời gian cuối những năm 1970 nhưng kể từ khi chế độ này bị lật đổ, Phật giáo đã hồi sinh trở lại trên đất nước này.

Hồi giáo là tôn giáo của đa số người Chămngười Mã Lai thiểu số ở Campuchia. Đa số là người Hồi giáo Sunni và tập trung đông ở tỉnh Kampong Cham. Hiện nay có hơn 250.000 người Hồi giáo trong nước.

1% dân số Campuchia được xác định là Kitô hữu, trong đó Công giáo Rôma tạo thành nhóm lớn nhất tiếp theo là cộng đồng Tin Lành. Hiện nay có 20.000 người Công giáo tại Campuchia, chiếm 0,15% tổng dân số. Các nhánh Kitô giáo khác bao gồm Baptist, Liên minh Kitô giáo và truyền giáo, Phong trào Giám Lý, Nhân chứng Giê-hô-va, Phong trào Ngũ Tuần, và Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô.[21]

Phật giáo Đại thừa là tôn giáo của đa số Hoa kiềuViệt kiều tại Campuchia. Các yếu tố của thực hành tôn giáo khác, chẳng hạn như việc tôn kính các anh hùng dân gian và tổ tiên, Khổng giáoĐạo giáo kết hợp với Phật giáo Trung Hoa cũng được thực hành.

Trước chế độ Khmer Đỏ, có 73.164 tín đồ đạo Cao Đài ở Campuchia, trong đó Việt kiều chiếm 64.954 người và số người Campuchia là 8210 người.[22] Hiện nay, chỉ còn khoảng 2.000 tín đồ Cao Đài ở Campuchia tập trung ở thủ đô Phnom Penh với một Thánh thất Cao Đài.[23]

Dữ liệu chung[sửa | sửa mã nguồn]

Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

STT Đối tượng Dữ liệu
1 Tên gọi chính thức Vương quốc Campuchia
2 Chính thể Quân chủ lập hiến hình thức tuyển cử theo hệ thống đại nghị
3 Hình thái nhà nước Nhà nước Quân chủ
4 Nguyên thủ quốc gia Quốc vương được lựa chọn bởi Hội đồng Ngai vàng Hoàng gia
5 Chính phủ Thủ tướngNội các
6 Cơ chế đảng phái chính trị Đảng phái ưu thế
7 Cơ quan lập pháp Nghị viện lưỡng viện: Thượng viện có 61 thành viên, Quốc hội có 123 thành viên
8 Đứng đầu Nghị viện Chủ tịch Thượng việnChủ tịch Quốc hội
9 Độ tuổi bầu cử Từ 18 tuổi trở lên
10 Nhiệm kỳ Nghị viện 6 năm ở Thượng viện và 5 năm ở Quốc hội
11 Quan hệ với Liên Hiệp Quốc Thành viên chính thức
12 Quan hệ với WTO Thành viên chính thức
13 Khung hình phạt cao nhất Chung thân (đã bãi bỏ luật tử hình)
14 Chỉ số dân chủ 2013 Thể chế hỗn hợp
15 Chỉ số dân chủ 2014 Thể chế hỗn hợp
16 Chỉ số tự do 2013 Không tự do
17 Chỉ số tự do 2014 Không tự do
18 Tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia Thái Lan, Việt Nam, Lào

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

STT Đối tượng Dữ liệu
1 GDP (danh nghĩa) 2009[24] 10.871 triệu USD
2 GDP (danh nghĩa) 2012[25] 14.118 triệu USD
3 Tỉ lệ tăng trưởng GDP (danh nghĩa) 2009-2012 29,87%
4 GDP/người 2009[26] 786 USD
5 GDP/người 2012[27] 926 USD
6 Tỉ lệ tăng trưởng GDP/người 2009-2012 17,81%
7 Trữ lượng dầu mỏ 0 thùng
8 Sản lượng dầu thô[28] 0 trùng/ngày
9 Tiền tệ sử dụng chính thức Riel Campuchia

Địa lý và hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

STT Đối tượng Dữ liệu
1 Tổng diện tích[29] 181.035 Km2
2 Tỉ lệ mặt nước[30] 2,5%
3 Diện tích mặt nước 4.526 km2
4 Diện tích mặt đất 113.509 km2
5 Đơn vị hành chính cấp I 24 tỉnh và thành phố
6 Hệ thống sông hồ quan trọng Biển Hồ, Hệ thống sông Mekong-Tonlesap
7 Đảo lớn nhất Đảo Koh Kong
8 Danh sách các quốc gia theo chiều dài]] đường bờ biển|Chiều dài bờ biển]][31]
433 km[32]
9 Biên giới quốc tế trên bộ Việt Nam, Lào, Thái Lan
10 Thực thể biển quan trọng Biển Đông, Vịnh Thái Lan, Vịnh Kompong Som
11 Dân số 2009 13.830.789 người
12 Dân số 2012 15.246.220 người
13 Tỉ lệ tăng trưởng dân số 2009-2012 10,23%
14 Thủ đô Phnompenh
15 Thành phố lớn nhất Phnompenh
16 Thành phố lớn thứ 2 Batambang

Văn hóa và giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

STT Đối tượng Dữ liệu
1 Ngôn ngữ sử dụng chính thức Tiếng Khmer
2 Nhóm chủng tộc chiếm đa số Người Khmer
3 Cơ sở giáo dục đại học và sau đại học danh tiếng nhất Học viện Hoàng gia Campuchia
4 Ý nghĩa tên gọi quốc gia Vùng đất của Đế quốc Khmer
5 Quốc hoa Rumdul
6 Quốc điểu Cò quăm lớn

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “World Population Prospects: The 2017 Revision”. ESA.UN.org (custom data acquired via website). United Nations Department of Economic and Social Affairs, Population Division. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2017. 
  2. ^ a ă â b “Cambodia”. International Monetary Fund. 
  3. ^ “2016 Human Development Report” (PDF). United Nations. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2017. 
  4. ^ “GINI Index”. Gini Index. World Bank. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2015. 
  5. ^ Đặng Thái Minh, “Dictionnaire vietnamien - français. Les mots vietnamiens d’origine française”, Synergies Pays riverains du Mékong, n° spécial, năm 2011. ISSN: 2107-6758. Trang 78.
  6. ^ Chandler, David P. (1992) History of Cambodia. Boulder, CO: Westview Press, ISBN 0813335116.
  7. ^ Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Phan Đăng dịch (Nhà xuất bản Thuận Hóa, năm 2005), trang 1834.
  8. ^ Bửu-Cầm và những người khác, Hồng-đức bản đồ, (Saigon: Bộ Quốc-gia giáo-dục, năm 1962), trang 166.
  9. ^ a ă "Cao Man có tên nữa là nước Chân Lạp, lại một tên nữa là nước Cao Miên. Lúc đầu đời Thiệu Trị tránh tên húy [Miên Tông] vẫn gọi là Chân Lạp, đến năm thứ 7, đổi lại làm tên [Cao Man] bây giờ)." Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện. Nhà Xuất Bản Thuận Hóa. Tập 02.
  10. ^ Bombing of Cambodia, Ohio History Central
  11. ^ CIA và cuộc chiến bí mật tại Campuchia-Shihanouk
  12. ^ Con số ba triệu người chết từ năm 1975 đến năm 1979 được cung cấp bởi chính quyền Phnom Penh (PRK) thân Việt Nam. Cha Ponchaud ước tính là 2,3 triệu; dự án của trường Đại học Yale Genocide Project ước tính là 1,7 triệu; Tổ chức Ân xá Quốc tế ước tính là 1,4 triệu và bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ước tính là 1,2 triệu. Khieu Samphan và Pol Pot cho là 1 triệu và 800.000 người.
  13. ^ “International Atomic Energy Agency”. IAEA. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2012. 
  14. ^ Cambodia, Kingdom of. Ola.iaea.org. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2011.
  15. ^ Royal Government of Cambodia.“Foreign Embassies”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2007. 
  16. ^ Catharin E. Dalpino and David G. Timberman (ngày 26 tháng 3 năm 1998). “Cambodia's Political Future: Issues for U.S. Policy”. Asia Society. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2005. 
  17. ^ By United Nations - 2007
  18. ^ CIA World Factbook
  19. ^ Pew Research Center – Global Religious Landscape 2010 – religious composition by country.
  20. ^ “Cambodia”. Truy cập 14 tháng 2 năm 2015. 
  21. ^ Bureau of Democracy, Human Rights, and Labour of the US Department of State.
  22. ^ “CAO DAI TU DIEN”. Truy cập 14 tháng 2 năm 2015. 
  23. ^ “Under the gaze of the Divine Eye”. Truy cập 14 tháng 2 năm 2015. 
  24. ^ “Report for Selected Countries and Subjects”. World Economic Outlook Database, October 2009. International Monetary Fund. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2009. 
  25. ^ “Report for Selected Countries and Subjects”. World Economic Outlook Database, October 2013. International Monetary Fund. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2013. 
  26. ^ Data refer mostly to the year 2009. World Economic Outlook Database-October 2009, Quỹ tiền tệ Quốc tế. Truy cập on ngày 8 tháng 10 năm 2009.
  27. ^ Data refer mostly to the year 2011. World Economic Outlook Database-October 2012, Quỹ tiền tệ Quốc tế. Truy cập on ngày 8 tháng 10 năm 2012.
  28. ^ Key world statistics 2013 IEA page 11 gas, page 13 oil, page 15 coal
  29. ^ Countries by Area Km2 - United Nations 2007
  30. ^ Water rate % - [[CIA World Facbooks
  31. ^ CIA World Factbook: Area
  32. ^ CIA World Factbook: coastline

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Xem vị trí trên Google Maps. Chú ý: Do lỗi biên tập mà tên trên Google Maps có thể không chính xác.
  • CIA World Factbook – U.S. Department of State website
  • Phan Minh Châu - Cùng bạn khám phá thế giới - Đất nước Campuchia - Sách hướng dẫn du lịch

Tọa độ: 11°34′24″B 104°54′35″Đ / 11,57319654°B 104,9097595°Đ / 11.57319654; 104.9097595