Andorra

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Công quốc Andorra Principat d'Andorra
Flag of Andorra.svg Coat of arms of Andorra.svg
Quốc kỳ Huy hiệu
Vị trí của Thân vương quốc Andorra
Khẩu hiệu
Virtus Unita Fortior
(tiếng Latinh: "Đức hạnh là mạnh hơn)
Quốc ca
El Gran Carlemany, Mon Pare
Hành chính
Chính phủ Quân chủ nghị viện
 • Hoàng thân TBN
 • Hoàng thân Pháp
 • Thủ tướng
Joan Enric Vives Sicília
François Hollande
Albert Pintat Santolària
Ngôn ngữ chính thức tiếng Catalan
Thủ đô Andorra la Vella
42°30′B, 1°31′Đ
Thành phố lớn nhất Andorra la Vella
Địa lý
Diện tích 468 km² (hạng 193)
Diện tích nước không đáng kể %
Múi giờ — (UTC+1); mùa hè: — (UTC+2)
Ngày thành lập 2 tháng 7, 1976
Dân cư
Dân số ước lượng (2007) 71.882 người (hạng 194)
Dân số (2006) 69.150 người
Mật độ 154 người/km² (hạng 69)
Kinh tế
GDP (PPP) (2006) Tổng số: 2,77 tỷ đô la Mỹ
Đơn vị tiền tệ Euro (EUR)
Thông tin khác
Tên miền Internet .ad

Andorra (tiếng Catala: Andorra, phiên âm tiếng Việt: "An-đô-ra"), tên đầy đủ là Thân vương quốc Andorra (còn dịch là Công quốc Andorra, tiếng Catala: Principat d'Andorra) là một nước trong lục địa nhỏ ở tây nam Châu Âu, nằm ở phía đông dãy Pyrenees, tiếp giáp với Tây Ban NhaPháp. Ngay cả khi bị cô lập, nó vẫn là một đất nước thịnh vượng nhờ vào du lịch và chính sách miễn thuế. Người dân ở đây có tuổi thọ cao nhất thế giới, khoảng 83.52 tuổi (thống kê 2007).

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Lịch sử Andorra

Theo truyền thuyết thì Charles Đại đế (Charlemagne) công nhận một đặc quyền cho người Andorra đền đáp việc họ chiến đấu chống người Maroc. Chúa tể của vùng Urgell trở thành người đứng đầu Andorra và sau đó vùng đất lại được dâng cho Giám mục của Urgell. Vào thế kỷ 11, một cuộc tranh chấp nảy sinh giữa Giám mục và vùng đất phía bắc Andorra.

Cuộc tranh chấp được giải quyết năm 1278 bằng một paréage, chia sẻ quyền cai trị Andorra giữa bá tước Foix (sau đó chuyển thành người đứng đầu nước Pháp) và Giám mục của La Seu d'Urgell, ở Catalonia, Tây Ban Nha.

Andorra được xác nhập vào Aragon hai lần, vào 1396 và 1512.

Sau khi Henry xứ Navarre trở thành vua Henry IV của Pháp, ông ta ban hành một sắc lệnh (1607) theo đó người đứng đầu nhà nước Pháp và Giám mục xứ Urgell là đồng vương Andorra.

Ngày nay các Tổng thống dân cử của Pháp vẫn nhận danh vị là Đồng vương Andorra.

Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Chính trị Andorra

Mới đây, hệ thống chính trị của Andorra còn chưa có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa các cơ quan hành pháp, lập pháptư pháp. Bản Hiến pháp được công nhận và chấp thuận vào năm 1993 đã lập nên một nhà nước Andorra dân chủ đại nghị có chủ quyền, tuy vẫn chịu sự cai quản của hai đồng quốc vương, nhưng người đứng đầu Chính phủ có quyền hành pháp. Các đồng quốc vương được trao một số quyền nhất định nhưng không có quyền phủ quyết các hoạt động của Chính phủ. Họ cử đại diện thường trực tại Andorra, chủ yếu mang tính chất lễ tân. Hội đồng toàn dân gồm 28 thành viên, được bầu thông qua tuyển cử phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 4 năm. Từ năm 1981, Hội đồng toàn dân bầu ra Hội đồng hành pháp, tức là Chính phủ. Hai đồng quốc vương hiện nay của Andorra là Tổng thống PhápTổng Giám mục xứ Catalan Tây Ban Nha. Thủ tướng Chính phủ hiện nay là ông Albert Pintat Santolària (thuộc đảng Tự do). Đảng Xã hội Dân chủ là đảng đối lập.

Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Andorra được chia thành 7 giáo xứ là:

Dân cư[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Nhân khẩu Andorra

Dân số của Andorra được ước tính là 85.082 người (tháng 7 năm 2011).[1] Dân số đã tăng từ 5.000 người trong năm 1900. Andorra là một nước đa sắc tộc gồm 31.363 người Andorra bản xứ chiếm 33% dân số, 27.300 người Tây Ban Nha chiếm 23% dân số, người Bồ Đào Nha 13,794 (21%), người Pháp 5213 (17%), 1085 người Anhngười Ý.[2] Người thuộc các sắc tộc khác không có quyền biểu quyết (bỏ phiếu) trong cuộc bầu cử xã. Hơn nữa, họ không được phép để được bầu làm thủ tướng hay sở hữu hơn 33% vốn cổ phần của một công ty tư nhân.[3]

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Phong cảnh dãy núi Andorran
Bài chi tiết: Địa lý Andorra

Andorra là thân vương quốc nhỏ ở Tây Âu, nằm ở phía sườn Nam của dãy Pyrénées, giữa biên giới nước PhápTây Ban Nha. Andorra là xứ sở tuyệt đẹp nhờ các hẻm núi và các thung lũng có sông Valira chảy qua và được bao bọc bởi các đỉnh núi cao.

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Kinh tế Andorra

Du lịch là ngành kinh tế chủ yếu của Andorra, đóng góp tới 80% GDP của đất nước. Andorra lôi cuốn khách du lịch nhờ môn trượt tuyết và hàng hóa miễn thuế. Hàng năm có khoảng 9 triệu khách du lịch đến Andorra.

Dịch vụ ngân hàng cũng đóng góp nhiều cho nền kinh tế. Nông nghiệp kém phát triển, chỉ có khoảng 2% diện tích là đất trồng trọt. Thực phẩm chủ yếu là nhập khẩu.

Bản đồ địa hình Andorra.

Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Dân số của Andorra là chủ yếu là Công giáo Rôma (90%). Vị thánh bảo trợ của đất nước là Đức Mẹ Meritxell. Mặc dù nó không phải là một tôn giáo chính thức của quốc gia, nhưng hiến pháp thừa nhận một mối quan hệ đặc biệt với Giáo hội Công giáo, cung cấp một số ưu đãi đặc biệt cho Giáo hội. Cộng đồng Hồi giáo chủ yếu được tạo thành từ những người nhập cư Bắc Phi. Giáo phái Kitô giáo khác bao gồm Anh giáo, Giáo hội Thống Nhất, Nhà thờ Tông đồ mới, Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô, và Nhân chứng Giê-hô-va. Có một cộng đồng nhỏ của người HinduBahá'ís.[4] Khoảng 100 người Do Thái giáo sống ở Andorra.[5]

Bản đồ 7 giáo xứ của Andorra

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ //www.cia.gov/redirects/ciaredirect.html
  2. ^ Departament d'Estadistica, 2008
  3. ^ “Andorra, sólo inmigrantes sanos”. EL PAÍS. Truy cập 5 tháng 10 năm 2015. 
  4. ^ "Andorra". International > Regions > Southern Europe. The Association of Religion Data Archives. 2005. Truy cập 2009-07-04.
  5. ^ “Andorra”. Truy cập 5 tháng 10 năm 2015.