12/12/12
Văn bản đã được chấp thuận tại cuộc họp tháng 12 năm 2012 của Ủy ban Chấp hành Quốc tế của CWI (Ủy ban Công nhân Quốc tế)
English Version: World Perspectives – Age of austerity preparing seismic convulsions
Mở đầu
Chúng ta đang sống trong một trong những thời kì kịch tính nhất của lịch sử. Công nhân Hi Lạp, theo sau đó là công nhân Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha chính là đội tiên phong của cả phong trào chống lại sự dã man của chủ nghĩa tư bản (CNTB), của chính sách khắc khổ không ngừng nghỉ. Không ai có thể lý lẽ rằng giai cấp lao động đang bị động trước sự tấn công điên cuồng của CNTB đã mục nát. Trong một loạt các cuộc tổng đình công, họ đã kháng cự. Họ vẫn chưa tạo ra một đảng đại chúng và một sự lãnh đạo xứng đáng với họ trong cuộc chiến giữa lao động và tư bản sẽ thống trị đầu thế kỉ 21 này. Đây là nhiệm vụ của CWI thông qua sự rõ ràng về mặt lý luận của đường lối cộng với một chương trình hành động để giúp tạo dựng sự lãnh đạo nói trên, góp phần đảm bảo thắng lợi cho giai cấp lao động.
Trung Đông
Tính chất bất ổn của quan hệ toàn cầu – điều có thể dẫn tới sự nổ ra các cuộc xung đột trên phạm vi toàn cầu – được biểu thị thông qua những cuộc va chạm giữa Israel và Hamas ở dải Gaza gần đây. Điều này được hạn chế trong khuôn khổ sự đáp trả bằng đạn pháo và một hiệp định ngừng chiến đã đạt được. Nhưng chiến tranh có thể nổ ra một lần nữa và một cuộc tấn công trên bộ bởi Israel nhằm vào Gaza không thể bị loại bỏ, điều này chính nó cũng sẽ châm ngòi cho sự rối loạn khắp vùng Trung Đông và là nguy cơ cho một cuộc chiến tranh lan rộng hơn
“Mùa xuân Ả rập” hay một chuỗi các cuộc nổi dậy ở Trung Đông và Bắc Phi đã và đang đe dọa sẽ biến thành một “mùa hè” hay sự bắt đầu của một “mùa đông”. Như CWI đã dự báo, sự tham dự của chủ nghĩa đế quốc ở Libya – được sự ủng hộ đầy tai tiếng của một bộ phận của cánh Tả, kể cả những người tự nhận là “Trotskyists” – đã giúp các nước đế quốc tạo dựng được một chỗ đứng chống lại cuộc cách mạng ở Trung Đông và Bắc Phi. Phong trào khổng lồ của quần chúng này đã đánh đổ chế độ độc tài Ben Ali ở Tunisia và Mubarak ở Ai Cập, với những lực lượng thánh chiến Hồi giáo bất lực đứng nhìn mà không thay đổi được kết quả của của cuộc cách mạng.
Phong trào đã đe dọa đem đến một kết quả tương tự ở Libya bằng sự huy động của quần chúng từ dưới lên trên, điều này được thể hiện qua những ủy ban công nhân độc lập ở Benghazi, những hình thức đã có thể lan rộng ra cả Libya. Tuy nhiên, đường lối này đã bị làm chệch hướng bởi chủ nghĩa đế quốc và đồng minh địa phương của chúng với kết quả thê thảm cho nhân dân Libya. Đất nước giờ đây bị cắt xẻ thành nhiều mảnh nhỏ với những thế lực với những đội dân quân, kể cả những thành phần Hồi giáo chính thống với tư tưởng phản động kiểu al-Qaida. Tuy đã đánh đổ chính quyền độc tài của Gadhafi nhưng quần chúng nhân dân đã không chấp nhận chịu đựng nhiều tên độc tài mini đang thành hình. Kết quả là người dân đã nổi dậy ở một số nơi để đánh đuổi các thế lực độc tài mới. Điều này biểu thị tiềm năng cho một chương trình độc lập của giai cấp lao động cho dân chủ và xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quá trình cách mạng cơ bản không chết hẳn mà có lẽ đã bị đẩy lui vào hậu trường.
Tình hình ở Tunisia, được tô vẽ bởi các nhà phát ngôn tư sản là một câu chuyện thành công, đầy lạc quan của “mùa xuân Ả rập”, vẫn còn hết sức bất ổn. Giá cả thực phẩm và thất nghiệp gia tăng đột ngột. Việc sử dụng những vấn đề tôn giáo như là công cụ tạo chia rẽ của đảng cầm quyền Ennahdha, trong một đất nước với truyền thống thế tục mạnh mẽ nhất thế giới Ả rập, về cơ bản đã thêm dầu vào lửa giận giữ. Tuy nhiên, phong trào Salafist đang thu hút những tầng lớp nghèo thành thị bị mất phương hướng. Một cuộc chiến dành quyền lực đang dần hiện rõ giữa những thành phần của chế độ cũ, tụ hội dưới vây cánh của cựu Thủ tướng lâm thời Caid Essebsi và đảng mới của ông ta – “Tiếng gọi Tunisia”- vốn có tiếng là thế tục cùng với liên minh cầm quyền đang dần sụp đổ bởi Ennahdha – vẫn đang cố gắng níu kéo quyền lực. Trong khi đó, những cuộc đình công của công nhân và biểu tình xã hội vẫn không hề suy yếu, minh chứng là sự tê liệt gần như hoàn toàn của ngành sản xuất phốt-phát trong vòng một tháng ở vùng Gafsa vào tháng 11. Như ở Ai Cập, sự bế tắc của CNTB đẩy những nhà cai trị mới đến việc hồi sinh lại sự thối nát của quá khứ, sự đàn áp đang trở thành phương pháp cai trị chính. Điều này không thể không dẫn tới sự phản kháng rộng rãi hơn của công nhân và thanh niên. Xây dựng ngọn cờ chính trị độc lập của giai cấp lao động dựa trên sức mạnh của UGTT ( Tổng công đoàn lao động Tunisia) là bức thiết hơn bao giờ hết.
Những sự kiện ở Jordan với phong trào quần chúng chống lại nhà vua và khả năng vui bị phế truất sớm thể hiện những gì đang diễn ra. Sự trỗi dậy của lực lượng Hồi giáo chính thống chiếm đa số trong nghị viện ở Ai Cập, Tunisia và nhiều nơi khác đang che khuất tạm thời những mục tiêu ban đầu của cuộc cách mạng, có tính chất dân chủ và xã hội rõ ràng. Nhưng những đảng và thế lực Hồi giáo sẽ phải đối mặt với bài kiểm tra của những phong trào quần chúng đòi hỏi cải thiện điều kiện cuộc sống, giải pháp cho thất nghiệp hàng loạt, những thứ sẽ không thể thực hiện được trên cơ sở CNTB. Giá cả tăng cao, đặc biệt là xăng dầu, cùng với đòi hỏi dân chủ đang thúc đẩy những phong trào ở Jordan. Những phong trào rộng lớn về những vấn đề xã hội, có thể được châm ngòi từ những sự kiện ở bên ngoài, ví dụ như ở châu Âu, có thể có hiệu ứng có thể thay đổi tình hình
Cùng lúc đó, một cuộc chiến trong khu vực hoặc nhiều cuộc chiến vẫn có khả năng xảy ra. Syria như một thùng thuốc súng với chính quyền Assad đang bị vây hãm và đối mặt với khả năng bị lật đổ nhưng sẽ được thay thế bởi một phe đối lập cũng bị chia rẽ theo lối bè cánh. Chúng ta không thể ủng hộ Assad hay phe đối lập. Chúng ta phải mở một con đường độc lập để tiếp cận với quần chúng nhân dân với một chương trình, quan điểm mang tính giai cấp.
Một số nhóm thiểu số vẫn trú ẩn dưới cánh của Assad vì sợ hãi những hậu quả nhằm vào họ của một chiến thắng cho phe đối lập vốn được sự ủng hộ của phần đông dân số Hồi giáo phái Sunni, với sự ảnh hưởng đáng kể và càng gia tăng của những tổ chức theo kiểu al Qaeda. Thêm vào đó, sự can thiệp của Thổ Nhĩ Kì chống lại chính quyền Assad đã châm thêm vào sự căng thẳng giữa hai nước. Những cuộc đụng độ vũ trang có thể nổ ra giữa hai bên và rồi có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Sự can thiệp của nhà nước Iran – với đa số thống trị là phe Hồi giáo Shia – ở phía những người cùng chi nhánh tôn giáo của họ ở Syria không thể bị loại trừ. Cũng như vậy, cuộc xung đột bè phái có thể lan sang Li-băng. Điều này có thể dẫn tới việc Israel sẽ mở đợt không kích vào những cơ sở hạt nhân của Iran và đưa đến điều không tránh khỏi là sự đáp trả từ đạn pháo của Iran và Hezbollah công kích các thành phố và cơ sở ở Israel.
Trong cuộc xung đột hiện tại, chính quyền Israel và phần đông dân chúng đã bị bất ngờ bởi khả năng đạn pháo của Hamas có thể nhắm tới trung tâm Tel Aviv. CWI phản đối những cuộc “công kích mang tính phẫu thuật” của Israel (được cho là chỉ tiêu diệt những mục tiêu quân sự cần thiết)- điều này không hề là sự thật khi kết quả là ít nhất 160 người Palestin đã bị giết.
Trong cuộc đấu tranh chính đáng chống lại sự khủng bố của nhà nước Israel chúng tôi không ủng hộ phương pháp của Hamas: phóng tên lửa bừa bãi vào những thành phố đông dân ở Israel. Điều này chỉ phục vụ cho việc đẩy dân chúng về phía chính quyền Netanyahu, với 85% ủng hộ hành động đáp trả và hiện tại 35% đang ủng hộ một cuộc xâm lược trên bộ vào Gaza, trong đó hàng trăm ngàn người Palestin và Israel sẽ bị giết hoặc bị thương. Người dân Palestin có quyền phản kháng những hành vi khủng bố của nhà nước Israel nhưng điều này có thể thực hiện một cách tốt nhất thông qua những phong trào quần chúng chống lại sự xâm lấn trong lãnh thổ bị chiếm đóng – với mục tiêu là tách rời giai cấp lao động Israel khỏi sự ủng hộ chính quyền tàn bạo của Netanyahu. Trong bối cảnh một cuộc xâm lược Gaza hay bất cứ nơi đâu trong lãnh thổ bị chiếm đóng, người dân Palestin có quyền phản kháng, với vũ khí nếu như cần thiết, để chống lại kẻ xâm lược.
Cùng với đó, chính sách thực dân ngày càng khiêu khích của Israel – đặc biệt là một bộ phận những người định cư Israel đang tiếp tục xâm lấn và chiếm lĩnh đất đai ở Palestin – nếu không bị ngăn chặn có thể đẩy một bộ phận dân cư Palestin gần hơn đến sự thay đổi về viễn cảnh của một sự dàn xếp cuộc xung đột này. Đến bây giờ, sự ủng hộ cho giải pháp “2 quốc gia” – một quốc gia cho người Palestin bên cạnh Israel – đang được sự ủng hộ rõ ràng của đa số như là cách giải quyết xung đột.
Trong thời gian ngắn, cuộc tấn công vào Gaza bởi Israel có thể đã làm gia tăng sự ủng hộ cho ý tưởng một nhà nước riêng biệt cho dân Palestin. Tuy nhiên, chúng ta đã chỉ ra rằng trên cơ sở CNTB, một nhà nước Palestin sẽ là một sự thất bại từ trứng nước. Nó sẽ không thỏa mãn yêu sách của quần chúng Palestin về một quê hương bình yên nếu xét tính hạn chế của quốc gia này và sự thiếu vắng nền tảng kinh tế. Chúng ta vì thế ủng hộ một nhà nước dân chủ XHCN Palestin bên cạnh một nhà nước dân chủ XHCN Israel trong một liên bang XHCN của khu vực.
Nam Phi
Không kể đến sự ảnh hưởng của những yếu tố địa chính trị trong một chuỗi các sự kiện – có thể thay đổi nghiêm trọng quan điểm trong nhiều trường hợp – những nét nổi bật của tình hình hiện tại và sự lún sâu vào khủng hoảng của CNTB thế giới và sự đáp trả đầy tính chiến đấu của giai cấp lao động và tầng lớp nghèo. Điều này được biểu tượng hóa bởi sự thức tỉnh trở lại dũng mãnh của giai cấp lao động Nam Phi dẫn đầu bởi những thợ mỏ. Những cuộc đình công anh dũng, giống như những cuộc cách mạng trước đó ở Trung Đông và Bắc Phi, đã truyền cảm hứng cho giai cấp lao động ở những nước công nghiệp phát triển
Theo sau những thợ mỏ, những phân nhánh khác của giai cấp lao động Nam Phi đã đáp lời bằng một làn sóng đình công lớn và đẫm máu nhất trên thế giới hiện tại. Điều này cũng được biểu thị bằng một cấp độ ý thức cao, ý thức XHCN của nhân dân lao động – một di sản đã không bị phủ bỏ hoàn toàn sau cuộc cách mạng sớm thất bại những năm 1980, chính là tiền đề cho sự kết thúc chủ nghĩa phân biệt chủng tộc (Apartheid). Minh chứng là yêu sách về những công đoàn có tính chiến đấu cho công nhân mỏ thay thế cho công đoàn hoàn toàn thối nát NUM (công đoàn thợ mỏ quốc gia). Đối mặt với đảng ANC (Đại hội dân tộc phi) cũng tham nhũng không kém, những người thợ mỏ với sự giúp sức của chúng ta đã phát đi lời kêu gọi cho một đảng công nhân đại chúng mới. Điều này sẽ củng cố yêu sách tương tự cho sự đại diện độc lập của giai cấp lao động ở tất cả các nước – là lực lượng đa số – nơi mà quần chúng công nhân không có một đảng chính trị nào để đại diện cho họ dù chỉ là một phần.
Ngay cả tạp chí Economist, tiếng nói của giới chủ tư bản thế giới đã nói rằng: “Mong ước hiện thực nhất cho đất nước trong những năm tới là sự chia rẽ thực sự trong đảng ANC giữa thành phần dân túy cánh tả và cánh hữu toàn đại tư bản để đưa đến sự lựa chọn thực sự cho cử tri”. Điều này thật ngạc nhiên nếu không muốn nói là không tin nổi khi mới nghe. Không có báo chí tư sản nào ủng hộ điều này với nước Anh! Trong khi đó điều đáng báo động với báo Economist là đảng ANC đã mất uy tín đến mức một trời một vực là khoảng cách hiện diện giữa những vị vua, chúa, lãnh tụ của ANC và giai cấp lao động, để quần chúng bị bần cùng hóa đang bắt đầu quay ngoặc ra sang cánh Tả và đi theo đường lối của những chiến sĩ thực thụ và những người XHCN, thành viên của DSM(Phong trào Xã hội chủ nghĩa Dân chủ) – là phân nhánh của CWI ở Nam Phi. Chính vì thế bọn chúng sẽ lấp sông dời núi để ngăn cản quần chúng hướng về phía chúng ta, ngay cả việc tạo nên một phong trào thay thế “dân túy” đối nghịch với một đảng công nhân đại chúng thực thụ. Bọn chúng sẽ khó lòng mà thành công nếu chúng ta làm tốt hoạt động của mình.
Phong trào ở Nam Phi cũng đã giúp phơi trần sự yếu kém của CNTB Nam Phi. Vào đầu thế kỉ này. Nam Phi chiếm 40% tổng GDP của 48 nước phía nam Sahara. Nigeria, gấp 3 lần về mặt dân số, nhưng tụt xa ở vị trí thứ hai chỉ với 14% GDP. Phần còn lại của châu lục đều nhỏ hơn rất nhiều về mặt GDP so với hai người khổng lồ trên. Tuy vậy những nhà kinh tế đang ước tính rằng, bất chấp sự trục trặc về kinh tế và những trở ngại rõ ràng, Nigeria sẽ vượt mặt Nam Phi trong một vài năm. Một phần sự giải thích là đã có 6% tăng trưởng trong những nền kinh tế phía bắc con sông Limpopo, mặc dù phần lớn sự tăng trưởng này là ở sản xuất tài nguyên, trong khi đó ở mức tăng trưởng của Nam Phi đã chậm lại chỉ chưa tới 2%. Nước này cũng được đánh giá rất thấp trong giáo dục, khoa học, toán học v.v… Sự thất nghiệp hàng loạt tại địa phương được thống kê chính thức khoảng 25% nhưng thực tế có lẽ là gần 40%. Một phần ba công nhân Nam Phi tồn tại với 2 đô la một ngày. Sự bất bình đẳng khổng lồ thực ra đã tăng lên kể từ khi chế độ phân biệt chủng tộc bị dẹp bỏ và khoảng cách giàu nghèo là một trong số lớn nhất trên thế giới.
Hình ảnh của một cuộc khủng hoảng đang leo thang ở khu vực vốn dĩ luôn bất ổn phía Đông Công-gô và bạo lực chủng tộc chết người gần đây ở Kenya- nơi được cho là biểu tượng của sự ổn định- chỉ ra rằng trong sự thiếu vắng một phong trào đoàn kết mạnh mẽ của công nhân, sự phân rã xã hội, xung đột phe cánh hay một sự sụp đổ hoàn toàn có thể thắng thế. Mali, từ lâu cũng được mô tả là hình mẫu của nền dân chủ ở tây Phi đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nhiều phía và không có tiền lệ mà quần chúng là người đang phải trả một cái giá đắt. Đến nay, ước tính 450,000 người đã bỏ chạy khỏi phía bắc đất nước, nơi đang nằm dưới sự kiểm soát của các phe phái vũ trang phản động. Sự giàu có về khoáng sản cũng như vị trí địa-chiến lược của Mali là lí do nước này khuấy động sự thèm khát của những thế lực đế quốc, với Pháp đứng ở hàng đầu. Một yếu tố nữa là nỗi sợ hãi của những nước lân cận là một khi Mali bị tan tác thì sẽ tạo một tiền lệ cho chính đất nước của họ. Khả năng của một cuộc can thiệp được đế quốc hỗ trợ thông qua những nước lân cận từ phía bắc kéo theo nguy cơ làm mất ổn định càng lớn hơn cho cả khu vực.
Điều tối quan trọng là CWI xây dựng trên những nền tảng chúng ta đã phát triển ở châu Phi, đặc biệt là ở Nigeria và Nam Phi. Những đồng chí ở Nigeria của chúng ta đã theo đuổi hoạt động với tính chất quần chúng một cách quả cảm, bao gồm tham gia vào một số những cuộc tổng đình công. Tuy nhiên, sự kết hợp của những chính sách của nhiều lãnh đạo công đoàn và sự vắng bóng một đảng công nhân mang tính quần chúng đã tăng sự phức tạp của tình hình. Đặc biệt là sự trỗi dậy của Boko Haram. Những kinh nghiệm chúng ta đã gặt hái được ở Nigeria và Nam Phi sẽ được trả công xứng đáng trong thời kì tới.
Những nhà kinh tế và bình luận của tư sản đang dự đoán một cuộc “phục hưng châu Phi”. Đúng là một số nước đã vượt xa những ông chủ thực dân cũ của họ về mặt tăng trưởng, như Angola và Bồ Đào Nha. Điều này đã thu hút người nhập cư từ Bồ Đào Nha, Braxin và nơi khác. Nhưng sự tăng tưởng này mang tới lợi ích cho một tầng lớp rất ít những người chuyên nghiệp có đào tạo. Thực sự là rất khó có khả năng quần chúng nhân dân sẽ được hưởng lợi to lớn nếu tính đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, vốn sẽ ảnh hưởng những nước thuộc địa mới nặng nề hơn những nền kinh tế công nghiệp phát triển. Bất kì cuộc “phục hưng” nào ở châu Phi cũng có nhiều khả năng sẽ mang tính chất cách mạng Mác-xít, trong đó chúng ta sẽ đóng vai trò quan trọng, nếu không nói là quyết định bởi vị trí chúng ta đã xây dựng ở hai quốc gia chính ở châu Phi: Nigeria và Nam Phi. Chúng ta phải nhắm tới sự mở rộng ra những quốc gia khác ở châu Phi, tạo lập CWI trên nền tảng toàn châu lục Phi.
Bầu cử ở Mỹ
Sự kiện quan trọng nhất trong thời gian vừa qua, ít nhất là ở các nước tư bản phương Tây, là sự tái đắc cử của Obama trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Ông ta là tổng thống đầu tiên được tái đắc cử từ năm 1945 với mức thất nghiệp trên 7.5%. Một vài nhà chiến lược của tư bản – kể cả những người tưởng tượng mình là một trong số đó, như George Osborne, thành viên đảng bảo thủ, bộ trưởng tài chính Anh – đã rút ra những kết luận hoàn toàn sai từ cuộc bầu cử này. Chúng cho rằng lý do chính khiến Obama được tái cử vì người Mỹ đổ lỗi cho tổng thống trước là Bush cho những thảm họa kinh tế hiện tại. Điều này không nghi ngờ gì là một yếu tố nhưng nó không phải là duy nhất và cũng càng không phải quyết định. Ở Anh, chính quyền sẽ bị xét đoán trên cơ sở những chính sách hiện tại, những chính sách đang tàn phá điều kiện cuộc sống. Một sự phân cực lớn đã diễn ra với những người bầu cho Obama-bất kể sự thất vọng kể từ khi ông ta được bầu-đã cùng đi bầu để ngăn chặn ứng cử viên của phe “0.01%” dân số, những kẻ tài phiệt, giàu có chiến thắng cuộc bầu cử này thông qua Romney.
Đã có một nỗi lo sợ thật sự về một chiến thắng của Romney sẽ có nghĩa là bánh xe lịch sử bị quay ngược và phúc lợi xã hội, những cải cách y tế vốn hạn chế sẽ bị xói mòn v.v… Điều này đã giúp tỉ lệ đi bầu cử, dù không cao như năm 2008, nhưng dù sao cũng cao hơn theo tiêu chuẩn lịch sử. Tỉ lệ phiếu bầu phổ thông sát nút hơn với Obama vượt lên với 50.8% so với 47.5% nhưng, quan trọng nhất là đa số phụ nữ ủng hộ ông ta, tỉ lệ còn nhiều hơn nữa với phụ nữ trẻ. Ông ta cũng chiếm được 80% phiếu bầu của cử tri là dân tộc thiểu số – người gốc La-tinh và người Mỹ gốc Phi, những phân nhánh đáng chú ý của lực lượng lao động được tổ chức – như là công nhân ngành xe hơi, tham gia tranh cử và ủng hộ Obama. Trong cuộc bầu cử này, không chỉ là câu hỏi về chiến thắng của “con quỷ ít ác hơn”. Điều này đương nhiên là có, nhưng một một số tầng lớp đáng kể cũng đã sẵn sàng cho Obama “thêm thời gian” để “sửa chữa nền kinh tế”. Cũng đã có một tâm trạng có tính chất phòng thủ trong xã hội để bảo vệ chính họ trước sự công kích dữ dội có thể thấy trước nếu như Romney thắng. Đương nhiên Obama sẽ không thể sửa chữa nền kinh tế bởi tính chất của cuộc khủng hoảng kéo dài này.
Thắng lợi phi thường của ứng cử viên Socialist Alternative ở Seattle với 29% số phiếu là chiến thắng không chỉ cho những người ủng hộ ở Mỹ mà là cho toàn thể CWI. Tương tự là sự tái đắc cử của đồng chí chúng ta ở Úc. Đó là sự khẳng định mạnh mẽ cho tư tưởng đề cử ứng cử viên độc lập của công nhân trong bầu cử để dần tiến tới một đảng công nhân đại chúng mới. Hơn nữa, điều này đã xảy ra ngay trong trung tâm của thế lực tư bản mạnh nhất trên thế giới. Chiến thắng này báo trước cho những gì chúng ta có thể nhìn thấy ở những nơi khác, đặc biệt là ở Nam Phi và châu Âu vào thời kì sắp tới. Những cuộc bầu cử này chỉ ra tiềm năng hiện hữu một cách biện chứng ở Mỹ cho tư tưởng và chương trình của XHCN. Di sản sự phản bội của lực lượng dân chủ xã hội và chủ nghĩa Stalin không tồn tại ở Mỹ. Điều này tạo nên một địa thế thuận lợi cho tư tưởng chân thật của XHCN hơn nhiều nơi ở châu Âu và nhiều nơi khác tại thời điểm này. Chiến thắng của Obama cũng có thể được hiểu như vậy từ quan điểm của chúng tôi. Nhiệm kì thứ 2 của Obama có thể chuẩn bị cho một đảng thứ ba, nhưng lần này là một đảng nhân dân, cấp tiến và ngay cả một đảng XHCN của giai cấp lao động. Mặc dù nó có thể sẽ không thực sự đi theo đường lối của XHCN trong giai đoạn đầu. Sự trỗi dậy của một đảng cánh tả cấp tiến mới trong quá trình đó sẽ đại diện cho một bước nhảy to lớn ở Hoa Kì. Đương nhiên, tất cả phương hướng còn tùy theo nền kinh tế sẽ chuyển biến như thế nào ở Mỹ và trên toàn thế giới.
Nền kinh tế thế giới – khối BRICS (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi viết tắt)
Triển vọng cho kinh tế thế giới là chìa khóa cho phương hướng của CNTB thế giới. Và không có khu vực nào trên thế giới ở hiện tại có thể đưa ra triển vọng ngay cả với một cuộc đào thoát trung hạn cho cả hệ thống. Ý kiến là nhóm BRICS có thể được tách riêng ra khỏi kinh tế thế giới đã bị bác bỏ bởi sự giảm tốc ở Trung Quốc và những hiệu ứng phụ đến tương lai của những nền kinh tế dựa vào xuất khẩu sản phẩm thô. Mức tăng trưởng của Braxin đến 7.5% đã hạ tức tốc xuống mức dự báo 1.6% trong năm 2012. Theo sau đó, Braxin và những nước tương tự như Úc với 21 năm bùng nổ tăng trưởng có thể nhìn thấy căng thẳng xã hội gia tăng và những cuộc đình công với giai cấp lao động cùng có số phận như phần còn lại của thế giới. Điều này sẽ cho phép những hành động phối hợp trên phạm vi quốc tế như cuộc tổng đình công ngày 14 tháng 11 ở châu Âu. Ở Braxin, chính sự phát triển của kinh tế đã là một điều tích cực khi nghịch lý là nó củng cố sức mạnh của giai cấp lao động và dẫn tới những cuộc đình công, như chúng ta đã dự đoán, với giai cấp lao động yêu cầu được trả phần của mình trước sự gia tăng lợi nhuận của giới tư sản.
Kinh tế Mỹ
Kinh tế Mỹ – một trong số ít đã lấy lại mức sản xuất trước năm 2008 – đã chậm xuống mức yếu nhất từ năm 2009, tăng trưởng ở mức dưới 2% trong khi những nền kinh tế lớn nhất thế đều đồng loạt đuối sức. Nếu đảng Cộng hòa từ chối một thỏa thuận với Obama, nếu kinh tế Mỹ rơi xuống “vách đá tài khóa” thì điều này sẽ có thể dẫn tới sự lao dốc của kinh tế thế giới gần như một cách tự động. Kinh tế thế giới vốn đã trì trệ sẽ kéo theo một cuộc suy thoái trầm trọng hơn. Lợi ích của CNTB sẽ buộc đảng Cộng hòa tiến tới một thỏa hiệp với Obama một cách logic. Nhưng hệ thống chính trị ở Mỹ, được thiết kế ban đầu dành cho dân số với phần đông là nhiều nông dân nhỏ vào thế kỉ 18, giờ đây đang bị rối loạn hoạt động hoàn toàn khi phải kéo cùng nó đảng Cộng hòa. Obama, trong một cơn bộc phát đã tiết lộ trong cuộc nói chuyện với giới ngân hàng Mỹ vào năm 2009 rằng: “Chính quyền của tôi là tất cả những gì chen vào giữa các người và đám dân đen”. Nhưng trong cuộc bầu cử vừa rồi, Obama đã không tranh thủ được sự ủng hộ của tầng lớp tư sản Mỹ vốn đã đặt cược vào Romney. Điều này chỉ ra rằng một giai cấp không phải lúc nào cũng nhận thấy được những lợi ích tốt nhất cho chính nó! Chính những nhà tư tưởng và chiến lược của giai cấp thống trị, đôi khi đi ngược lại ý kiến những người mà chúng đại diện và sẵn sàng đấu tranh cho lợi ích của giới tư bản và vạch ra đường lối phía trước. Vấn đề của chúng ngày nay là chọn những con đường khác nhau để tàn phá thế giới.
Kinh tế thế giới
Tình trạng suy sụp và mất lòng tin là lý do để những thể chế linh thiêng của chủ nghĩa tư bản như IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) hay World Bank (Ngân hàng thế giới) từ chối đầu tư cũng như đưa ra nhiều báo động. Những dự đoán trước đó về một cuộc đào thoát khỏi khủng hoảng nhanh chóng đã tiêu tan và nhường chỗ cho chủ nghĩa bi quan. Chúng giờ đã đồng ý với phân tích của chúng ta là cuộc khủng hoảng sẽ kéo dài và còn có thể tệ hơn rất nhiều nữa. Thủ tướng anh Cameron và thống đốc Ngân hàng Anh cảnh báo rằng khủng hoảng có thể còn kéo dài thêm một thập kỉ nữa; IMF cũng đồng thanh như vậy. Thuật ngữ “ngân hàng xác sống” lúc đầu chỉ dùng ở Nhật Bản bây giờ không chỉ dùng được cho những ngân hàng mà cả nền kinh tế Mỹ, châu Âu và Nhật. Và như ở Nhật, những nhà kinh tế tư sản đang dự báo “một thập kỉ thất bại” cho một số nước và cả châu Âu. Một vài người còn suy đoán sẽ kéo dài đến hai, ba thập kỉ. Một sự so sánh với cuộc suy thoái thế kỉ 19 từ năm 1873 đến 1896 đã được đưa ra, ít nhất là cho châu Âu. Martin Wolf của tờ Thời báo Tài chính (Financial Times) mơ màng nói rằng: “Có phải thời đại của tăng trưởng không ngừng đã dứt?” và dẫn chứng rất nhiều từ một nghiên cứu mới “Có phải tăng trưởng ở Mỹ đã chấm dứt? Những cải tiến loạng choạng đối đầu với 6 luồng gió ngược” (“Is US Economic Growth Over? Faltering Innovation Confronts the Six Headwinds.” [NBER Working Paper no 18315.] )
Tác phẩm trên gợi lên câu hỏi sống còn về vai trò của những cải tiến, phát minh nói chung trong sự phát triển của CNTB, và đặc biệt trong sự thúc đẩy năng suất lao động. Những tác giả của nghiên cứu nói trên đã kết luận rằng, chủ yếu là đã có “3 cuộc cách mạng công nghiệp” kể từ 1750 đóng vai trò cốt yếu trong sự phát triển của CNTB. Cuộc đầu tiên là từ 1750 tới khoản 1830, chính là lúc máy hơi nước, quay tơ sợi, đường sắt và v.v… được phát minh. Cuộc thứ hai là cuộc quan trọng nhất với 3 phát minh trung tâm là điện, động cơ đốt trong và máy bơm nước trong nhà trong một khoảng thời gian tương đối ngắn từ 1870 đến 1900. Cả hai cuộc cách mạng này đều cần gần 100 năm để toàn bộ hiệu ứng của nó thẩm thấu vào nền kinh tế. Sau năm 1970, mức tăng năng suất đã giảm đáng kể vì một số lý do (những lý do đã được chúng ta phân tích và trả lời những lập luận của những kẻ đào ngũ của chúng ta ở Nam Phi và Liverpool). Cuộc cách mạng của máy vi tính và Internet – được mô tả bởi các tác giả trên là cuộc cách mạng công nghiệp thứ 3- đạt cực điểm của nó vào thời kì “chấm com” (dot-com) trong những năm cuối 1990. Nhưng sự tác động chính của nó tới năng suất đã và đang tàn úa trong vòng 8 năm trở lại. Họ kết luận rằng kể từ năm 2000 những phát minh hầu như tập trung vào thiết bị giải trí và thông tin liên lạc ngày càng nhỏ hơn, thông minh hơn và nhiều chức khả năng hơn nhưng chúng không thay đổi một cách căn bản năng suất lao động và mức sống theo cách mà ánh điện, xe hơi hay hệ thống bơm nước trong nhà. Điều này không phải để chứng minh là không có những phát minh tiềm năng để nâng cao mạnh mẽ năng suất nhưng tình thế “tiến thoái lưỡng nan” là tình trạng suy thoái của CNTB hiện tại, chính nó không có khả năng để đạt đủ tiềm năng của lực lượng lao động. Xu hướng mức độ lợi nhuận ngày càng giảm – và sự sút kém thực sự của khả năng kiếm lợi nhuận – làm nản lòng giới tư bản khi phải nghĩ tới những phát kiến mới có thể phát triển lực lượng lao động.
Theo sau đó là vấn đề của “nhu cầu” đã dẫn đến “cuộc đình công của khoản đầu tư”, với ít nhất là 2 ngàn tỉ “vốn nằm không” chất thành đống trong những công ty Mỹ. Và thêm vào đó là sự hiện diện của đống nợ khổng lồ treo lơ lửng. Satyajit Das của Thời báo tài chính nhiếc móc giới tư sản Mỹ là “không có khả năng nắm được thực tế là viễn cảnh của tăng trưởng rất ít hoặc không tăng trưởng trong một thời gian dài… Những khoản vay liên tục tăng lên là cần thiết để giữ mức tăng trưởng. Đến năm 2008 khoảng 4 đến 5 đô la Mỹ tiền nợ mới đủ để tạo ra 1 đô la tăng tưởng so với mức chỉ 1 đến 2 đô la nợ từ những năm 1950. Trung Quốc giờ đây cần 6 đến 8 đô la nợ để tạo ra 1 đô la tăng trưởng; sự gia tăng từ 1-2 đô la từ 15 đến 20 năm trước”. Trotsky đã bình luận về tình hình mà CNTB phải đối mặt cuối giai đoạn khủng hoảng những năm 1930: “Lực lượng sản xuất của nhân loại đình trệ. Đã có nhiều những cải tiến và phát minh thất bại trong việc nâng cao mức của cải vật chất. Những cuộc khủng hoảng nối tiếp nhau dưới điều kiện là cuộc khủng hoảng xã hội của cả hệ thống tư bản giáng đòn đau thương và tước đoạt càng nhiều hơn của quần chúng. Thất nghiệp gia tăng rồi chính nó cũng sẽ làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế của nhà nước càng bị lún sâu hơn và ngày càng làm cho hệ thống tài chính vốn bất ổn càng bị xói mòn” [trích tác phẩm Chương trình Quá độ – Transitional Programme]
Chúng ta phải rút ra hết những kết luận cần thiết từ những điều này, điều mà nhiều bộ phận của giới tư sản đang thực hiện từ góc nhìn giai cấp của chúng. CNTB không chỉ đối mặt với một cuộc khủng hoảng mà là một chuỗi khủng hoảng. Chúng đang cố điều hòa giai cấp lao động với viễn cảnh tăng trưởng nhỏ giọt hoặc không tăng trưởng và từ đó là mức sống bị hạn chế nặng nề, như những gì đang diễn ra ở Hi Lạp. Chúng ta phải đối đầu với điều đó thông qua chương trình của chúng ta và phải nhấn mạnh những khả năng vô tận nếu xã hội được tổ chức một cách có kế hoạch, có lý lẽ thông qua XHCN. (Trung Quốc đang chuẩn bị xây toàn nhà cao nhất thế giới – với tốc độ là 3 tầng một ngày – trong chỉ 90 ngày. Đương nhiên là khi xét tới lý lịch của việc vứt bỏ những vấn đề tai nạn lao động, an toàn và sức khỏe cũng như cái giá phải trả về mặt môi trường thì rất nhiều người đã phản đối điều này. Nhưng điều này chỉ ra tiềm năng khổng lồ không được sử dụng một cách tốt đẹp trong CNTB nhưng sẽ được khai thác đúng mức trong một nền kinh tế được vạch kế hoạch một cách dân chủ.
Châu Âu
Cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Âu là cuộc nghiêm trọng nhất mà CNTB thế giới đang đối mặt. Quy mô của cuộc khủng hoảng một phần là do sự giới thiệu đồng Euro. Nó được biểu thị qua mức độ thất nghiệp quy mô lớn với 18.49 triệu người không có việc làm ở 17 nước dùng chung đồng Euro, với hơn 146,000 người nữa gia nhập vào lực lượng thất nghiệp chỉ trong tháng 10. Khắp 27 nước của Liên minh châu Âu (EU), gần 26 triệu đàn ông và phụ nữ không có việc làm trong tháng 10 – sự gia tăng khoảng 169,000 người trong vòng 2 tháng trong khi tỉ lệ thất nghiệp trung bình ở mức 10.6%
Cuộc khủng hoảng với tính chất cực kì nghiêm trọng và khó giải quyết, với biện pháp khắc khổ rõ ràng không có hiệu lực, một cuộc tranh cãi đã nổ ra, với IMF đang cảnh báo “biện pháp khắc khổ quá đáng” được áp dụng bởi các chính phú ở châu Âu với sự ủng hộ của các quan chức EU và ngân hàng trung tâm châu Âu (ECB). Một mặt, như chúng ta đã giải thích, ECB đã phác thảo và lên kế hoạch tiến hành một hình thức của chủ nghĩa Keynes (Keynesianism) như Cục Dự trữ Trung ương Mỹ và ngân hàng liên hiệp Anh bằng cách mua lại các trái phiếu chính phủ cũng như các khoản cho vay rẻ cho các ngân hàng và các nhà nước. Mặt khác, chính những thế lực này – gọi là “bộ xe tam mã” (troika) – vẫn đang là công cụ cho những chính sách khắc khổ. Đám này bị nóng mặt vì sự chỉ trích ngầm của IMF khi tổ chức này đã chỉ ra một “hiệu ứng cấp số nhân” tiêu cực là kết quả của chính sách khắc khổ gay gắt – cắt giảm chi tiêu chính phủ, mất việc làm v.v… – và theo đó cắt giảm nguồn thu cho nhà nước. ECB và các chính phủ phản đối bằng lý lẽ rằng cắt giảm chi tiêu nhà nước cùng với những chính sách khắc khổ khác và tư nhân hóa v.v… là “tuyệt đối cần thiết”. Mặc cho những lời bào chữa và kỳ vọng tăng trưởng, chính sách khắc khổ đã thổi tắt cả những tàn tro của nền kinh tế còn tồn tại xuyên suốt khủng hoảng.
Thực tế là chính sách của chủ nghĩa Keynes (Keynesianism) đã thất bại trong việc tạo ra tăng trưởng. Trong tình hình hiện tại, nó như là lấy sức đẩy vào một sợi dây. Điều này dẫn tới những người theo chủ nghĩa Keynes (Keynesians) mới ra lò, như nhà cựu tiền tệ học theo chủ nghĩa Thatcher là Samuel Brittan, đi vận động cho những biện pháp táo bạo hơn. Ông này ủng hộ cho một thứ được ví như là một cuộc “săn tìm kho báu” khổng lồ trong nỗ lực liều lĩnh để vực lại nền kinh tế. Ông ta gợi ý, một cách nửa đùa nửa thật, rằng hàng đống tiền mặt nên được chôn và những tâm hồn phiêu lưu nào tìm ra nó sẽ quay sang tiêu xài! Tuy nhiên không có gì chứng tỏ điều đó đang diễn ra. Của bố thí được phân phát cho đến nay đã được dùng để thanh toán nợ chứ không phải nâng mức tiêu dùng. Đây là biểu hiện của sự liều lĩnh của giai cấp thống trị muốn có chút chuyển biến ở giai đoạn này. Chủ nghĩa Keynes đã được thử một phần và đã thất bại nhưng không có nghĩa là nếu phải đối mặt với một cuộc bùng nổ cách mạng giai cấp tư sản sẽ không phải dùng tới những biện pháp chủ nghĩa Keynes một cách sâu rộng. Những nhượng bộ sẽ được đưa ra và rồi đám tư bản sẽ cố lấy lại thông qua lạm phát ở giai đoạn sau đó.
Ngay đến bây giờ, những thế lực của EU vẫn đang cố tránh khỏi một sự vỡ nợ của Hi Lạp bằng cách gợi ý rằng cần thêm thời gian để những khoản nợ được trả. Điều này sẽ không ngăn chặn những cuộc công kích tàn bạo nhằm vào giai cấp lao động Hi Lạp, vốn vẫn đang được áp dụng một cách không thương xót bởi EU. Và nó cũng sẽ không giải quyết được những vấn đề căn bản của một Hi Lạp vẫn đang ngổn ngang với những khoản nợ khổng lồ. Vì vậy, một sự vỡ nợ ở Hi Lạp vẫn có khả năng xảy ra và sẽ mang tới hậu quả to lớn cho toàn châu Âu, kể cả Đức, nước vẫn đang mắc nợ nặng nề với ngân hàng các quốc gia khác. Cũng có thể có khả năng Đức sẽ khởi xướng cho việc rời khỏi đồng euro theo như phe đối lập chính trị ở nước Đức muốn chống lại chính sách giải cứu các quốc gia khác. Ngay cả đề nghị cho Hi Lạp thêm thời gian để trả hết nợ cũng vấp phải sự phản đối từ đám tư bản Đức bởi như vậy nghĩa là miễn một phần nhỏ món nợ. Có khả năng là với Tây Ban Nha và những nước khác, trái bóng sẽ được “đá qua đá lại”. Nhưng cuối cùng thì trái bóng sẽ thành quá nặng để có thể đá qua lại! Bởi vậy sự chia cắt của khu vực đồng euro vẫn còn là một khả năng hiện hữu. Sự chống đối với “câu lạc bộ nhà giàu” châu Âu đang gia tăng với yêu sách cho một cuộc trưng cầu ý dân ở những nước như Anh hoặc các nước khác. Phần đông các cuộc khảo sát cho thấy sự ủng hộ rút khỏi liên minh châu Âu. Bè lũ tư bản châu Âu không thể chắc chắn rằng nếu không có những biện pháp cấp bách thì tình hình bất ổn sẽ dẫn tới những sự biến động to lớn hơn trong thời gian tới.
Ngay cả người Trung Quốc cũng bày tỏ sự quan ngại báo động liên quan tới những sự kiện diễn ra ở châu Âu với một quan chức cấp cao là Ji Liqun, là lãnh đạo của một đất nước rộng lớn, có của cải quốc gia lên tới 300 triệu bảng Anh, cảnh báo rằng dân chúng ở châu Âu đang ở thời điểm “nguy kịch”. Trước đó ông ta lý luận rằng người châu Âu nên “làm việc chăm chỉ hơn” nhưng giờ đã nhận thấy rằng mức độ giận dữ của quần chúng có thể dẫn tới sự “phá bỏ hoàn toàn” chương trình khắc khổ. Ông ta nói: “Sự thực là người dân đang xuống đường và sử dụng bạo lực cho thấy sự kiên nhẫn của họ đã tới giới hạn. Nhiều công đoàn đang tham gia vào tổ chức các cuộc biểu tình, tuần hành và đình công. Nó làm gợi nhớ đến những năm 1930.” Ít nhất thì một trong những quan ngại không nói ra của ông ta là tấm gương của nhân dân lao động châu Âu có thể lan tới chính Trung Quốc và sự lo ngại cho nguồn đầu tư của Trung Quốc ở châu Âu.
Đông Âu và Nga
Đông Âu và Nga cũng đang trải qua những biến động to lớn. Chính quyền ở Nga đang phải đối mặt với đối lập ngày càng cao. Putin không còn được xem như là bất khả chiến bại. Những sự nhượng bộ tối thiểu được đưa ra để đối mặt với những cuộc biểu tình quy mô lớn đã bị phủ nhận bởi sự củng cố chủ nghĩa độc đoán và Putin đang ngày càng dựa dẫm vào các thế lực phản động như là giáo hội. Gần đây chúng ta đã thấy những đội tuần tra người Cô-dắc (Cossack) được đưa ra để giữ “trật tự” và chiến đấu với “người nhập cư trái phép”. Những biện pháp này sẽ không cứu vãn được chính quyền. Hai thập kỉ sau sự lật đổ chủ nghĩa Stalin, người dân Nga chỉ vừa bắt đầu lại. Đầu tiên là với một sự giận dữ bùng nổ chống lại sự gian lận trong bầu cử. Khi những cuộc biểu tình phát triển trong suốt năm qua, ngay cả truyền thông thân tư sản cũng đã nhận xét là những cuộc biểu tình này đang dần hướng về phía cánh Tả, với một khối lớn đang bảo vệ cho sự cô lập những phần tử chính trị gia tự do và nhân vật nổi tiếng có vẻ “dẫn dắt” phong trào khỏi phần lớn quần chúng tham gia. Thường thì trong lịch sử, khi những tầng lớp ở giữa của xã hội chống lại một chính quyền chống lại quần chúng thì nó cũng mở ra cánh cửa cho những thành phần quần chúng bị đàn áp. Cho đến nay, giai cấp lao động chưa xuống đường với một lực lượng đông đảo dưới ngọn cờ của riêng họ. Nhưng họ sẽ đưa ra đòi hỏi và tổ chức những tổ chức độc lập của công nhân cả trong những công đoàn và cả trên mặt trận chính trị. Quá trình này sẽ được củng cố khi tình hình kinh tế thay đổi như nó sẽ chắc chắn diễn ra trong thời kì tới.
Đáng tiếc là lực lượng của cánh Tả rất yếu ở Nga. Những người theo truyền thống chủ nghĩa Stalin hầu hết đều tẩy chay những cuộc biểu tình để rộng đường cho những tay chủ nghĩa tự do và cực hữu bảo vệ ưu thế khi mà các đám “cánh Tả” khác đi vuốt đuôi lũ tự do và kể cả thúc đẩy sự đoàn kết với lực lượng cựu hữu. Mặc dùng lực lượng chúng ta còn nhỏ, với việc tham gia vào những vấn đề mang tính dân chủ và kết nối chúng với những yêu sách về kinh tế và xã hội theo một phương pháp quá độ, chúng ta đã thành công trong việc có ảnh hưởng đáng chú ý: đạt được hơn 10,000 phiếu bầu (khoảng 14%) cho những ứng cử viên của chúng ta trong cuộc bầu cử của ủy ban phối hợp phe đối lập. Sự can thiệp của chúng ta vào những cuộc biểu tình này đã đi một bước dài trong việc tạo lập cho chúng ta vị trí một trong những tổ chức cánh tả chính ở Nga
Quốc gia này đang phụ thuộc quá nhiều vào giá dầu, vốn tăng lên mức kỉ lục trong quá khứ nhưng bây giờ đang bắt đầu đi xuống và có thể sẽ rớt nhiều hơn nữa bởi sự co lại của kinh tế thế giới và đặc biệt là Trung Quốc. Một vài nhà bình luận cho rằng Mỹ sẽ tự cung tự cấp về năng lượng vào năm 2035 và điều này sẽ có ảnh hưởng đến thu nhập của những nước sản xuất dầu, trong đó có Nga, và cả Ả rập Sau-đi và những nhà sản xuất ở vùng Vịnh. Điều này rất đáng nghi ngờ nhưng nó đưa ra những vấn đề địa chính trị quan trọng như việc Mỹ có còn tận tâm vào việc phòng thủ eo biển Hormuz trong một cuộc xung đột với Iran hay không
Kazakhstan
Tình hình là tương tự ở những nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ. Trong muôn vàn chông gai và với sự giúp đỡ của các đồng ý ở Nga và cả CWI, chúng ta tiếp tục nỗ lực duy trì tổ chức qua nhiều năm. Điều này có thể đem đến những kết quả ngoạn mục trong thời gian tới. Những biện pháp đàn áp đầy thù hằn của chính quyền Nazarbayev chỉ làm gia tăng thêm nhóm chống đối và sẽ đem tới những sự chuyển biến mang tính cách mạng. Chỉ có rất ít nơi trên thế giới có khoảng cách giữa một số cực ít thống trị và số đông quần chúng nhân dân bị bần cùng hóa lớn hơn ở Kazakhstan. Sự phá hủy giai cấp trung lưu cũng đã diễn ra ở đây, ngay trước cả ở Hi Lạp. Người lao động phải đối mặt với thất nghiệp quy mô lớn, cộng với sự khước từ những quyền dân chủ cơ bản, cụ thể là quyền được tổ chức trong công đoàn và có một đảng của riêng họ. Chúng ta đã tiến hành một chiến dịch quốc tế phi thường của sự đoàn kết với hành động phối hợp giữa đại diện trong nghị viện châu Âu của chúng ta bên cạnh nhiều công đoàn, những nhân vật văn hóa, công nhân và thanh niên không chỉ để biểu thị sự đồng cảm và ủng hộ mà còn đến theo những chuyến thăm trực tiếp, từ đó thắt chặt sự nối kết quốc tế giữa giai cấp lao động Kazakhstan và phong trào lao động ở Tây Âu cũng như toàn thế giới.
Chúng ta cần phải tiếp tục công cuộc xây dựng Socialist Movement Kazakhstan (Phong trào Xã hội chủ nghĩa Kazakhstan) với tiềm năng đoàn kết những chiến sĩ giai cấp ở đó trong một tổ chức rộng lớn hơn cùng với việc tiến những bước vững chắc để đảm bảo một đội ngũ nòng cốt Marxist được xây dựng có khả năng dẫn dắt phong trào trong suốt những sự kiện chấn động không thể tránh khỏi sẽ diễn ra. Bất cứ một sự thành công nào ở Kazakhstan trong việc tạo dựng một phong trào độc lập của giai cấp lao động cũng sẽ gây tiếng vọng quốc tế lớn, đặc biệt là ở Nga, cũng như nhiều nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ và chính khối Đông Âu.
Đông Âu
Ở Đông Âu, chúng ta đã thấy một cuộc tổng đình công ở Romania, một phong trào tương tự ở Slovenia, những cuộc đình công quan trọng ở cộng hòa Séc và nhiều nơi khác. Đó là minh chứng cho sự tiến vào vũ đài đấu tranh của quần chúng nhân dân ở Đông Âu. Ở Ba Lan, việc tăng tuổi nghỉ hưu lên 67 năm là một thất bại đắng cay cho phong trào công nhân thể hiện cho những bước đầu tiên để xây dựng một cuộc tổng đình công ở vùng Silesia. Mặt khác, trong sự vắng bóng một đảng đại chúng công nhân, đám cực hữu đang tiến dần vào lấp chỗ trống và đang có một trỗi lên và củng cố của lực lượng này. Ở Hungary đã có một phong trào đối lập mạnh mẽ chống lại chính quyền cực hữu của Fidesz và những đồng minh trong phong trào Jobbik với lực lượng bán quân sự của chúng. Cú quất phản cách mạng đã được triển khai ở Hungary nhưng nó sẽ không tránh khỏi việc kích động một phong trào chống đối to lớn từ quần chúng. Chúng ta phải nỗ lực củng cố lực lượng khiêm tốn của chúng ta ở các nước sẽ trở thành những vũ đài quan trọng trong xung đột giai cấp này với sự tái tham gia của giai cấp lao động trên vũ đài chính trị.
Ai Len
Ai Len, từ nhiều quan điểm là một đất nước có vai trò sống còn với CWI. Đầu tiên, nó đã trải qua một chương trình khắc khổ khắc nghiệt nhất ở phía bắc châu Âu tương tự như những gì đang diễn ra ở nam Âu. Trong vòng vài năm, nó đã lao dốc từ một nước với mức sống thuộc loại cao nhất châu Âu – nếu không muốn nói là cao nhất, dựa trên một số phép đo- không chỉ ở mức suy thoái mà ở một mức suy thoái sâu và lâu dài. Với sự cộng tác giai cấp hèn nhát của những lãnh đạo công đoàn – đã quen với hàng thập kỉ sự “chung phần xã hội” (kiểu như “xã hội hóa” với góp vốn hỗn hợp từ cả nhà nước và tư nhân)- thật không ngạc nhiên khi giai cấp lao động Ai Len bị choáng váng lúc đầu với sự nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng. Nhưng sự giận dữ giai cấp đang gia tăng khi những bằng chứng về sự tham nhũng kinh khủng của giới tư bản, đặc biệt là ngân hàng và nhà nước. Tình trạng gia tăng thất nghiệp trong chốc lát đến mức ít nhất là 15%, sự gia tăng việc tước đoạt nhà ở với những người vô gia cư bên cạnh những “bất động sản ma” như châm thêm dầu vào lửa. Và thêm vào đó là sự chảy máu tuổi thanh xuân bởi việc di cư.
Hơn thế nữa, chính quyền đã thuế nhà ở đầy tai tiếng. Chúng ta đã chiếm lĩnh một vị trí nổi bật trong sự lãnh đạo chiến dịch chống lại thuế này và nó đã thành công khi thuyết phục được ít nhất 50% dân chúng không trả thuế. Tuy nhiên, chính quyền Ai Len đang đề xuất việc thay thế khoản thuế đó với thuế bất động sản mới mang tính trừng phạt còn cao hơn, nhưng cũng sẽ cho giai cấp lao động và chúng ta một quy mô lớn hơn cho sự xây dựng một chiến dịch đại chúng. Sự hiện diện của những đại diện trong nghị viện của chúng ta ở chiến dịch này và nhiều chiến dịch cấp quốc gia và quốc tế khác là vô giá đối với tổ chức chúng ta ở Ai Len và xuyên suốt CWI. Sự từ chức của một trong số nghị viên trong hàng ngũ chúng ta đã làm thất vọng một số người nhưng nó có liên quan đến cuộc đấu tranh của để bảo vệ lý tưởng và phương pháp của chúng ta và sẽ giúp chúng ta tiến tới nắm lấy những cơ hội không thể nghi ngờ trong thời gian bão tố sắp tới ở Ai Len. Tương tự ở Bắc Ai Len, mặc cho sự chia rẽ bè cánh dai dẳng, các đồng chí của ta đã tổ chức một cách đầy gan dạ một cuộc diễu hành chống thất nghiệp và kỉ niệm cuộc “bạo động” ở Belfast vào năm 1932 cũng có xu hướng chống lại thất nghiệp và đã chứng kiến cảnh người theo đạo Thiên chúa và đạo Tin lành cùng đoàn kết trong một cuộc biểu tình chống lại bài ‘kiểm tra khả năng’ – được tạo ra để cắt giảm tiền trợ cấp thất nghiệp.
Ai Len cũng rất quan trọng bởi vì United Left Alliance ( ULA- Liên minh cánh Tả thống nhất), trong đó chúng ta là một thành viên. Chúng ta đã đối đầu với nhiều khó khăn từ “những hướng được dự báo” – chính là những cựu thành viên và SWP (Socialist Worker Party – đảng Công nhân Xã hội) – đã dẫn tới việc một tổ chức thành lập ULA đào ngũ. Điều tối quan trọng là chúng ta tiếp tục xây dựng tổ chức chúng ta để có thể tạo dựng được một đòn bẩy chủ nghĩa Marx mạnh mẽ ở Ai Len trong thời gian tới, như những gì đã được chỉ ra từ hội nghị thành công của CWI Ai Len.
Cái chết của một phụ nữ châu Á trẻ, bởi vì bác sẽ từ chối cho cô nạo thai trên lý lẽ “Ai Len là một nước công giáo” và nạo thai là trái phép, đã tạo nên sự bất bình mạnh mẽ. Mặc dù bác sĩ nói trên hiểu rõ tính mạng của cô ta gặp nguy kịch nếu ca nạo thai không được tiến hành gấp rút. Joe Higgins, nghị viên của chúng ta ở Ai Len, mô tả chính xác điều này là “kiểu trung cổ”, với hệ thống cấp bậc của giáo hội công giáo vẫn có thể khăng khăng bào chữa những biện pháp phản động như sự vi phạm kinh tởm quyền lợi của phụ nữ về sự lựa chọn cho cơ thể của họ. Vụ việc này đã dẫn tới những cuộc biểu tình của đàn ông bà phụ nữ đòi hỏi phải thay đổi luật. Việc này chứng tỏ rằng cuộc đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ vẫn còn một chặng đường dài phía trước- và không chỉ ở Ai Len – khi mà sự bình đẳng thật sự giữa các giới tính được thiết lập, điều này chỉ có thể đạt được hoàn toàn bằng một sự thay đổi trong xã hội. Tuy nhiên điều đó không cho chúng ta quyền được miễn đấu tranh ngay bây giờ -như nhiều phân nhánh đã làm – để chiến đấu đòi cải thiện cho vị trí của phụ nữ trong gia đình, ở nơi làm việc, những nơi mà phụ nữ vẫn phải bị trả lương thấp và trong xã hội nói chung.
Nam Âu
Nói chung, những sự kiện chính trị chấn động đang diễn ra ở thời điểm hiện tại là ở phía nam châu Âu. Chúng ta đã chứng kiến nhiều cuộc tổng đình công ở Hi Lạp, kể cả 4 cuộc tổng đình công trong vòng 48 giờ, phong trào to lớn ở Tây Ban Nha, kể cả 2 cuộc tổng đình công trong vòng 8 tháng, cùng với những cuộc tuần hành của hàng triệu người, ở Bồ Đào Nha với một triệu người đình công và xuống đường cũng như một cuộc tổng đình công nửa ngày ở Ý. Lần đầu tiên vào ngày 14 tháng 11, một hành động được phối hợp toàn châu Âu diễn ra với sự ủng hộ mạnh mẽ nhất cho cuộc đình công ở những nước được báo chí tư sản gọi là “câu lạc bộ Địa Trung Hải” (Club Méditerranée): Tây Ban Nha, Hi Lạp, Bồ Đào Nha và Ý. Số lượng tham gia ở Hi Lạp không bằng những cuộc tổng đình công trước đó chỉ bởi vì quy mô của những hành động đã được thực hiện trước đó bởi giai cấp lao động Hi Lạp. Ở nam Âu, những phòng thu truyền hình đã bị chiếm đóng, ở Ý và Tây Ban Nha những cuộc xô xát diễn ra khi những đường tàu lửa bị chiếm đóng ở Brescia và Naples. Rõ ràng là có một tâm thức mang tính nửa nổi dậy tồn tại đối lập với chương trình khắc khổ được thực hiện ở cấp độ châu lục.
Vương quốc Anh
Ở phía bắc châu Âu, quần chúng cũng đã bắt đầu chuyển động. Ví dụ là ở Anh, hội nghị của TUC(Trade Union Congress – đại hội công đoàn), dưới áp lực từ tổ chức của chúng ta cùng với NSSN ( National Shop Steward Network – Mạng lưới đại biểu công đoàn quốc gia ) và những công đoàn cánh Tả như PCS (Public and Commercial Services Union – công đoàn dịch vụ công và thương mại), RMT (Railway Maritime and Transport Workers Union – công đoàn công nhân đường sắt, hàng hải và vận tải) và POA(Prison Officers Association – Liên hiệp cai ngục), vào tháng 9 đã bầu cho sự cân nhắc một ngày tổng đình công, lần đầu tiên sau hàng thập kỉ, để chống đối chương trình khắc khổ của liên minh được dẫn đầu bởi đảng Bảo thủ. Một đội quân tập hậu đang bám víu dai dẳng chống lại đòi hỏi tổng đình công được hậu thuẫn bởi bộ máy quan liêu cánh hữu ở trong các công đoàn. Thêm vào đó, luật pháp chống công đoàn có tính chất trừng phạt cao nhất ở các nước công nghiệp phát triển – chủ lao động và chính quyền sẽ không ngần ngại sử dụng để ngăn cản cuộc đình công – là một chướng ngại cần phải vượt qua. Nhưng mặt khác, sức nóng đang được dồn lên cao cho một ngày tổng đình công chỉ bởi vì quy mô của những sự cắt giảm đã được thực hiện. Chính quyền của Cameron dường như đã xác định rằng sẽ khó có khả năng chiến thắng trong cuộc bầu cử tiếp theo và vì vậy đang sẵn sàng cố thử và dồn ép một chuỗi những sự cắt giảm tàn bạo tương tự như những thứ đã được đưa ra bởi chính quyền Bảo thủ thời kì trước cuộc tổng đình công năm 1926. Chính quyền đang làm điều này khi biết chắc rằng một chính quyền đảng Lao động sắp tới dẫn đầu bởi Ed Miliband sẽ không đảo ngược những sự cắt giảm trong dịch vụ. Thực tế là, tại cuộc biểu tình của TUC với 150,000 người ở London vào ngày 20 tháng 10, Miliband đã bị la óc phản đối bởi đám đông khi ông ta thừa nhận không thể hủy bỏ những sự cắt giảm đã được đưa ra bởi chính quyền liên minh của đảng Bảo thủ.
Một ngày tổng đình công có khả năng diễn ra ở Anh vào thời gian tới nhưng thời gian của một hành động như vậy là không được chắc chắn, một phần bởi nhịp điệu chậm rãi của phong trào lao động Anh nhưng cũng bởi vì sự ngáng chân của giới lãnh đạo công đoàn theo cánh hữu. Một khi cuộc tổng đình công một ngày diễn ra ở Anh, tình hình sẽ được biến chuyển. Đương nhiên, điều này phụ thuộc một phần vào cách nó được chuẩn bị và có hay không khả năng nó tiến xa hơn sự tham gia của công nhân ở khu vực công và số thành viên công đoàn hiện tại – với 26% lực lượng lao động, một tổng số 6.5 triệu công nhân.
Tuy nhiên, sự khao khát có hành động kiên quyết để đối đầu với chính quyền chắc chắn sẽ gia tăng khi những đợt công kích nhằm vào giai cấp lao động tăng lên, không chỉ thông qua chính sách cắt giảm, mà còn cả những sự đe dọa từ chính quyền nhắm tới quyền lợi của công đoàn. Chính quyền đang đề xuất những biện pháp như tăng giá gây khó khăn cho sự kháng cáo chống lại sự kỷ luật và sa thải nhân viên của đám chủ, cũng như cắt xén bớt “thời gian được tạo điều kiện” để những nhân viên công đoàn tại nơi làm việc có thể đại diện cho người lao động. Nếu một cuộc tổng đình công diễn ra thì sự bất mãn đã mưng mủ ở một cấp độ tại Anh sẽ tập hợp theo sau nó. Mặc dù nước Anh vẫn chưa đến mức của Hi Lạp ngày nay, nó đã như là một Hi Lạp trong phim quay chậm. Trong cuộc công kích nhằm vào những thành phần dễ tổn thương nhất trong xã hội như người nghèo, người tàn tật v.v… giai cấp thống trị Anh, thông qua Osborne, đã thể hiện sự tàn nhẫn cùng cực. Osborne đã bị la hét phản đối ở Paralympics, bởi vì những người khuyết tận trong đám đông và ngay cả nhiều vận động viên sẽ sớm bị tước bỏ những cơ sở vật chất và phúc lợi qua đề xuất của chính quyền. Giai cấp trung lưu và cả công nhân đang đối mặt với những cuộc tấn công nghiêm trọng. Lương bổng đã hạ xuống khoảng 13% kể từ lúc khủng hoảng bắt đầu. Cuộc tổng đình công ở Anh như vậy có thể tương tự như một cuộc đóng cửa hiệu để phản đối (hartal) ở Ấn Độ và Sri Lanka – một cuộc đình công không chỉ của đoàn viên công đoàn ở thành thị mà còn lôi kéo được những giai tầng ở giữa của xã hội, những nhân viên chuyên nghiệp và cơ sở kinh doanh nhỏ ở các thị trấn một khi hành động được tiến hành
Một tâm thế tương tự đang thành hình ở cấp độ châu lục. Có lẽ chỉ có nước Áo – và nó cũng sẽ bắt kịp như là kết quả của một cuộc khủng hoảng chung – và một hai “nước” nhỏ như Luxembourg và Liechtenstein, sẽ tạm thời tránh được những tác động đầy đủ của cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội. Cuộc khủng hoảng đang gay gắt nhất ở vùng nam Âu. Ngay cả quốc đảo Síp đang phải đối mặt với khả năng một cuộc cứu trợ hoặc vỡ nợ bởi cuộc khủng hoảng ngân hàng to lớn. Nhưng những Hi Lạp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sẽ lan tới bắc Âu sớm hơn dự đoán, ngay cả bởi nòng cốt của CWI. Một yếu tố của Nam Phi cũng có thể được đưa đến châu Âu thông qua một phong trào tương tự từ bên trong những công đoàn để lật đổ và thay thế những lãnh đạo từ chối việc tổ chức giai cấp lao động chống lại sự càn quét của CNTB.
Bắc Âu
Thụy Điển và cả vùng Scandinavia đang bị cuốn vào vòng xoáy khủng hoảng. Đã có hơn 28% thanh niên đang thất nghiệp ở Thụy Điển. Hơn thế nữa, sản lượng đầu ra về công nghiệp của nước này giảm 4.1% trong tháng 9. Tỉ lệ thất nghiệp toàn bộ gần bằng với nước Anh ở mức 7.8%. Thụy Điển là khu vực thử nghiệm cho những chính sách tự do mới vào những năm 1990. Cả những chính phủ dân chủ xã hội và những chính phủ cánh hữu đều đã tiếp tục chính sách này đối với y tế và đặc biệt là giáo dục. Đối lập từ công nhân đang lớn dần khi nhiều nhà máy bị đóng cửa và tài nguyên được tích góp lâu nay bị chuyển sang Đông Âu và những nơi khác. Những lãnh đạo quan liêu và thối rữa đang bóp nghẹt những công đoàn ở Thụy Điển sẽ đối mặt với sự thách thức của một giai cấp lao động đang bị thúc đẩy phải hành động. Những cơ hội lớn sẽ tới với phân nhánh chúng ta tại Thụy Điển trong thời gian tới. Chúng ta đã có một thành tích đấu tranh đáng nể trong tình hình khách quan khó khăn cho đến nay.
Đảng dân chủ xã hội Đan Mạch cũng đang ở vị trí thấp nhất trong những cuộc trưng cầu ý kiến trong một thế kỉ! Thủ tướng dân chủ xã hội đang nắm quyền trước sự sụp đổ này là con dâu của Neil Kinnock đầy tai tiếng, tên đã dẫn đầu cuộc tấn công nhằm vào chúng ta trong đảng Lao Động Anh những năm 1980 trên cơ sở chúng ta là một “gánh nặng” về mặt bầu cử. Ông ta đã thất bại ở tất cả các cuộc bầu cử trên cương vị lãnh đạo đảng Lao động! Mặc dù đang thắng cử trong cuộc bầu cử năm nay, con dâu của ông ta có khả năng sẽ tiếp nối truyền thống của gia đình!
Đức, cho đến nay là guồng máy kinh tế của châu Âu với một trong số những tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất khu vực nhưng cũng bắt đầu chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Những nước bị bao vây tứ phía bởi khủng hoảng đang hướng về Đức như một đầu máy để kéo châu Âu khỏi khủng hoảng. Nhưng họ sẽ thất vọng vì sự tăng trưởng chậm lại có nghĩa là chính quyền liên minh trung hữu của Đức đã quyết định đạp phanh và cắt giảm yêu cầu cho vay thực tế của chính phủ trong năm 2013. Luồng gió lạnh thổi từ Trung Quốc và những nơi khác đã cắt giảm nghiêm trọng xuất khẩu của Đức. Tư bản Đức cho tới hiện tại vẫn giữ lao động trong sự trông đợi một cuộc hồi phục tăng trưởng ở châu Âu và thế giới nhưng giờ đang vứt bỏ chính sách này, điều đó sẽ có thể dẫn tới sự gia tăng nhanh chóng thất nghiệp ở Đức. Chính quyền cũng sắp đối mặt với bầu cử liên bang vào tháng 9 năm tới. Merkel sẽ bị buộc phải tìm kiếm đồng minh nếu muốn giữ ghế, nhưng lần này sẽ khó có khả năng bao gồm đảng Tự do dân chủ đang nổi đầy tai tiếng. Có những suy đoán cho rằng bà ta có thể chia sẻ quyền lực với cả đảng Xanh, giờ là một đảng thân tư bản, trong một liên minh “đen-xanh”. Một sự kết hợp như vậy “có thể là chính quyền bảo thủ nhất kể từ sự thành lập cộng hòa liên bang Đức” như một số nhà phân tích đánh giá. Cả hai đảng giờ đồng ý về mặt môi trường với Merkel ủng hộ việc hủy bỏ năng lượng hạt nhân và cả về “kỉ luật tài khóa nghiêm ngặt”. Điều này cho thấy đảng Xanh đã dịch chuyển về cánh hữu xa như thế nào. Chúng vẫn sẽ ưu tiên một liên minh “đỏ-xanh” với SPD ( đảng Dân chủ xã hội) và 2 đảng đang chia sẻ quyền lực ở một số bang. Nhưng SPD đang mắc kẹt ở 30% số phiếu trưng cầu ý kiến trong khi đảng Xanh đang ở 12-15%; cho nên trong thời điểm hiện tại có vẻ như rất có khả năng bất cứ liên minh nào chiếm số đông cũng phải bao gồm CDU ( Liên minh dân chủ Cơ đốc) cầm quyền của Merkel. Sự tham gia của SPD vào chính quyền, cho dù cùng nhau hay riêng rẽ, cũng sẽ mở ra cơ hội cho sự phát triển của Die Linke (đảng Cánh Tả) – là đảng mà chúng ta làm việc cùng – có thể tăng trưởng trong điều kiện nó phát triển một chương trình cánh tả nghiêm túc, đó là cách duy nhất để tìm tiếng nói trong giai cấp lao động ở tình hình của Đức hiện nay.
Những sự biến chuyển đột ngột của tình hình kinh tế các nước châu Âu cũng được phản ánh qua những biến động và bước ngoặc về chính trị chúng ta đã thấy ở một số nước trong thời gian qua. Cuộc bầu cử ở Hà Lan đưa đến kết quả một chính quyền liên minh “trung tả” của đảng VVD tự do( đảng nhân dân vì tự do và dân chủ) và đảng Lao động, và ngay lập tức sau đó phải đối mặt với tình trạng xuống cấp nhanh chóng của nền kinh tế. Chính quyền đưa ra một chương trình khắc khổ và đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của quần chúng
Cuối cùng thì sự thành lập một chính quyền quốc gia ở Bỉ sau 541 ngày từ cuộc bầu cử tháng 6 năm 2010 đã không mang lại sự ổn định. Tháng 10 vừa qua, những cuộc bầu cử địa phương đã chứng kiến những bước tiến lớn của đảng dân tộc chủ nghĩa Flemish NVA (Liên minh Flemish mới). Cùng lúc đó đã có những cuộc biểu tình thường xuyên của công đoàn, kể cả một ngày tổng đình công vào tháng 1 vừa rồi chống lại cắt giảm việc làm và những sự đe dọa tấn công khác nhằm vào lao động. Bỉ là nước phía bắc châu Âu duy nhất cho thấy những cuộc đình công đáng kể diễn ra vào ngày 14 tháng 11, biểu tình được thêm lửa phẫn nộ bởi sự tuyên bố bất ngờ về việc nhà máy Ford ở Genk đóng cửa hoàn toàn. Ở cả hai phần của nước Bỉ (nói tiếng Pháp và tiếng Hà Lan), không kể những nỗ lực liên tục của đảng Xã hội (nói tiếng Pháp) để cố giữ bộ mặt “thân thiện với công nhân”, có sự gia tăng thảo luận trong công đoàn về sự cần thiết có một lực lượng chính trị mới đại diện cho giai cấp lao động.
Pháp
Ở Pháp, Francois Hollande và đảng Xã hội đã đạt được đa số trong cuộc bầu cử tổng thống và một đa số cánh tả trong quốc hội chỉ 6 tháng trước. Tuy nhiên, Hollande đã thay đổi xoành xoạch trong những vấn đề cốt yếu có ảnh hưởng tới giai cấp lao động, đầu tiên tỏ ra muốn loại bỏ chính sách khắc khổ và rồi đưa ra cắt giảm nặng nề. Ông ta sau đó đề xuất một loại thuế giành cho người giàu nhưng rồi cũng hạ giọng khi bị giới tư bản Pháp phản đối và đe dọa sẽ rời khỏi đất nước. Vì thế, vị trí của ông ta trong những cuộc thăm dò ý kiến rớt thảm hại và đang ở mức 36%, một sự sụt giảm kỉ lục về mức tín nhiệm của tổng thống nền cộng hòa thứ 5 sau 6 tháng nhậm chức.
Pháp cũng đối mặt với một sự tụt dốc nghiêm trọng về kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp sản xuất đã co lại tới một mức độ có lẽ ngang nước Anh, hiện tại đang ở vị trí thứ 2 hay 3 về năng lực công nghiệp bởi sự tàn phá của Thatcher trong quá khứ. Những cuộc đấu tranh giai cấp đang dần hiện rõ khi công nhân phản ứng trước những sự sa thải dồn dập – điển hình là 6000 công nhân hãng xe Peugeot ở vùng Paris và công nhân sắt thép đang đối mặt với sa thải. Sự lựa chọn về mặt chính trị phía cánh tả trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, đặc biệt khi sự đe dọa từ National Front (mặt trận quốc gia) cực hữu vẫn tồn tại và còn lớn mạnh. NPA (Đảng chống tư bản mới) không còn là một môi trường hữu ích để làm việc. Điều này có thể thay đổi nếu một bài học được rút ra nghiêm túc từ những thất bại trong việc nắm thế chủ động phía cánh tả trong quá khứ và nếu nó tạo dựng được những nền tảng của một đảng đại chúng. Sự dịch chuyển về phía cánh hữu của đảng xã hội và sự thất bại của cánh tả để đưa ra câu trả lời có thể dẫn tới sự hồi sinh của NPA nhưng ở thời điểm này thì điều đó vẫn còn xa phía trước.
“Left Front” (mặt trận cánh tả) của Melenchon chưa phát triển thành một lực lượng đối lập thật sự. Cũng có nhiều cuộc đấu tranh lẻ tẻ diễn ra như cuộc nổi dậy thực sự ở một khu vực chống lại việc xây dựng một sân bay mới ở phía tây nước Pháp. Tại thời điểm này, Left Front và người phát ngôn chính Melenchon cùng với đảng Cộng sản Pháp vẫn chưa tạo dựng được một lực lượng đối lập với Hollande hoặc tham gia vào những cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên điều này có thể thay đổi và chúng ta cần phải chuẩn bị cho những diễn biến quan trọng kể cả liên quan tới Left Front.
Hi Lạp
Châu Âu là chìa khóa cho tình hình thế giới ở thời điểm hiện tại, nơi mà đấu tranh giai cấp đang ở đỉnh điểm và với những cơ hội to lớn cho một sự đột phá của lực lượng cánh tả và cách mạng. Và nếu điều này là đúng thì Hi Lạp là chìa khóa cho tình hình ở châu Âu, với Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đang theo sát nút trong một dãy những móc xích yếu nhất của CNTB châu Âu. Chúng ta đã đăng tải một cách bao quát tài liệu trên trang web và trên báo từ nhiều phân nhánh nhằm phác họa những biến chuyển bùng nổ ở Hi Lạp trong thời gian qua. Như Trotsky đã nói về Tây Ban Nha những năm 1930, không chỉ một mà ba hay bốn cuộc cách mạng có thể đã thành công nếu công nhân Hi Lạp có những lãnh đạo có tầm nhìn xa và một đảng đại chúng dẫn đầu. Một lập trình viên máy tính người Hi Lạp đã nhận xét trên báo Guardian của Anh trong cuộc tổng đình công gần đây: “Cá nhân tôi rất ngạc nhiên vì đã chưa có một cuộc cách mạng”. Truyền hình ở Anh cũng bình luận rằng chỉ có 3% dân số thực sự ủng hộ những biện pháp khắc khổ của chính quyền và bộ tam mã (ECB, IMF, EU). Với tất cả sự đau đớn và thống khổ mà nhân dân Hi Lạp bị buộc phải gánh chịu, khi kết thúc chương trình khắc khổ hiện tại thì món nợ của Hi Lạp vẫn ở mức 192% GDP! Nói một cách khác thì không có chút khả năng món nợ sẽ được trả. Chính sách khắc khổ không ngừng là tương lai mà CNTB đã đè lên đầu nhân dân Hi Lạp.
Tất cả mọi điều kiện cho cuộc cách mạng không chỉ chín muồi mà đã chín thối. 19 cuộc tổng đình công và 4 trong số đó là những cuộc tổng đình công trong 48 giờ và những cuộc còn lại là 24 giờ chứng minh cho năng lượng dự trữ khổng lồ của công nhân Hi Lạp và sự sẵn sàng phản kháng. Tuy nhiên, họ đã cho thấy kết quả rằng bộ tam mã và tư bản Hi Lạp đã không bị lay chuyển và vì thế điều cần thiết là quay sang mặt trận chính trị hướng đến tư tưởng của một chính quyền cánh tả có thể chỉ lối thoát khỏi khủng hoảng. Bất kể sự thật là có một sự hoài nghi về Syriza và lãnh đạo của nó. Theo lời những đồng chí của ta, nhiều tầng lớp nhân dân đã sẵn sàng ủng hộ Syriza – hiện tại đang được 30% số phiếu trong những cuộc thăm dò ý kiến, nhưng không sẵn sàng gia nhập và tham gia tích cực trong hàng ngũ của nó. Có một yếu tố như vậy ở nhiều quốc gia. Sự thất vọng to lớn đối với sự thất bại của những đảng công nhân đã dẫn tới sự hoài nghi cực độ của quần chúng, kể cả những đảng chính thống bên phía cánh tả. Có một sự sẵn sàng ủng hộ những tổ chức cánh tả nhưng không cống hiến thời gian và công sức để gia nhập và xây dựng chúng. Công nhân đã bị thất vọng trong quá khứ và sợ sẽ bị một lần nữa. Tâm thức này, đương nhiên là có thể và sẽ thay đổi một khi họ thấy những đảng này thực sự tiến hành những điều đã hứa hẹn. Thay vì dịch chuyển về phía tả, những đảng cánh tả nói chung và Syriza nói riêng có xu hướng dịch về cánh hữu, hạ thấp chương trình của họ và mở cửa đón chào cả những lãnh đạo dân chủ xã hội đã đóng vai trò phá hoại đình công công khai trong thời gian gần đây. Điều này cũng một phần tùy thuộc vào tạo dựng một sức sống nội bộ lôi cuốn trong đảng của những cuộc thảo luận và bàn cãi. Sự tham gia của chúng ta vào những đảng này, trên phương diện nói trên, là mang tính quyết định
Trong hoàn cảnh ở Hi Lạp, những chiến thuật linh hoạt nhưng vẫn bám sát đường lối đã được vận dụng bởi phân nhánh ở Hi Lạp của chúng ta để đạt được những yêu cầu trong một tình hình vô cùng phức tạp. Chúng ta phải để mắt tới không chỉ những lực lượng cánh tả ngay trong Syriza mà còn cả những lực lượng có cỡ ở bên ngoài như các đồng chí đã giải thích là trong một số trường hợp đang đánh giá lại những quan điểm chính trị trong quá khứ.
Chúng ta không thể đưa ra một thời thời gian biểu khi nào thì chính quyền hiện tại sẽ sụp đổ – như một điều chắc chắn là vậy – với khả năng nắm lấy quyền lực của một chính quyền cánh tả dẫn dắt bởi Syriza. Nhưng chúng ta phải chuẩn bị cho một sự việc có thể diễn ra như vậy với mục tiêu thúc đẩy chính quyền nói trên về cánh tả, cùng lúc đó giúp tạo dựng những ủy ban dân chủ nhân dân để ủng hộ chính quyền chống lại cánh hữu đồng thời gây áp lực để nó phải đưa ra nhiều biện pháp để bảo vệ giai cấp lao động. Không loại trừ khả năng sẽ có sự xuất hiện của một lực lượng bán quần chúng mới và đáng kể từ những chiến thuật mà chúng ta đang thực hiện.
Điều đó sẽ bao gồm không chỉ là sự tập trung vào phát triển về phía cánh tả và các đảng công nhân mà còn phải chống lại mối đe dọa từ lũ cực hữu và đặc biệt là sự nổi dậy của bọn phát xít Golden Dawn (Bình minh vàng) – mức độ ủng hộ gần đây đã có lúc đạt được 14% nhưng giờ đã tụt xuống còn 10%. Một trong những lý do của sự suy giảm đó là sự thành lập những ủy ban chống phát xít quần chúng, do chính chúng ta phát động và kêu gọi sự tham gia của công nhân, thanh niên và người tị nạn trong số đó có những người tị nạn Hi Lạp hoặc con cháu của dân tộc thiểu số từ châu Á như lời những đồng chí của ta. Công việc này là đặc biệt quan trọng và có thể sẽ là hình mẫu cho tình hình tương tự có thể xảy ra đối với những phân nhánh ở các quốc gia khác trong tương lai.
Nếu giai cấp lao động và cánh tả thất bại trong việc hoàn thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, lịch sử đã chứng minh rằng họ sẽ phải trả một cái giá đắt cho hậu quả của nó. Những sự căng thẳng xã hội tồn tại ở Hi Lạp không thể bị nhốt mãi mãi trong khuôn khổ của “nền dân chủ”. Đang có một cuộc nội chiến úp mở với hơn 90% dân chúng chống lại “thành phần 1%” và nó có thể nổ ra xung đột công khai trong tương lai. Những phần tử cựu hữu ở Hi Lạp đã nêu ra ý tưởng của một chế độ độc tài nhưng điều này không nằm trong kế hoạch trước mắt. Bất cứ một động thái quá sớm với mục tiêu tái hiện cuộc đảo chính quân sự 1967 có thể châm ngòi một cuộc tổng đình công toàn diện như cuộc đảo chính Kapp ở Đức vào năm 1920 và một tình thế cách mạng tạo dựng. Và một cuộc đảo chính cũng không thể chấp nhận được tại thời điểm này đối với chủ nghĩa đế quốc, với “cộng đồng quốc tế” trong thời kì của “nền dân chủ và những giải pháp cho xung đột”.
Đám tư bản, đầu tiên, sẽ có khả năng sử dụng một hình thức của chủ nghĩa Bôn-na-pát nghị viện (parliamentary Bonapartism), như chính quyền của Monti ở Ý nhưng độc đoán hơn. Sự khốn cùng của kinh tế cùng với tình trạng xã hội ở Hi Lạp sẽ đòi hỏi một chính quyền cứng rắn và theo cánh hữu rõ ràng hơn là ở Ý, với quyền lực gạt bỏ quyết định của nghị viện trong “trường hợp khẩn cấp”. Nếu điều này không thành công và một loạt các chính quyền tương tự không có khả năng phá thế bế tắc xã hội, và nếu giai cấp lao động, thông qua một đảng cách mạng thất bại trong việc nắm lấy quyền lực thì bọn tư bản Hi Lạp sẽ tiến hành một nền độc tài công khai. Chúng ta phải cảnh báo giai cấp lao động rằng chúng ta vẫn còn thời gian nhưng chúng ta phải tận dụng nó để có thể chuẩn bị một lực lượng có khả năng tạo ra sự thay đổi XHCN. Sự hưởng ứng khắp châu Âu đối với cuộc đình công ngày 14 tháng 11 minh họa cho mối liên hệ bền chặt của những cuộc đấu tranh của giai cấp lao động. Nếu công nhân Hi Lạp phá bỏ xiềng gông của CNTB và kêu gọi công nhân ở tây Âu, hoặc ít nhất là ở phía nam châu Âu, sẽ có một sự hưởng ứng to lớn cho lời kêu gọi tạo dựng một liên bang XHCN – có thể bao gồm Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ai Len trong giai đoạn đầu, nếu không thì là Ý. Đây là cách tiếp cận phải được lan truyền trong hoạt động của phân nhánh tuyệt vời của chúng ta ở Hi Lạp trong thời kì sắp tới.
Tây Ban Nha
Tây Ban Nha ở rất gần phía sau Hi Lạp về mặt đấu tranh của công nhân chống lại những biện pháp khắc khổ đau đớn mà chính quyền cánh hữu PP (đảng nhân dân) được sự hậu thuẫn của bộ tam mã đang cố thực hiện. 1 trong 4 người ở Tây Ban Nha và Hi Lạp đang thất nghiệp với hơn 50% thanh niên không có việc làm. Những số liệu này tương tự như những gì đã được chứng kiến suốt thời kì đại khủng hoảng những năm 1930 ở Mỹ. Đương nhiên, cho tới bây giờ, vẫn còn một tấm lưới bảo vệ từ nhà nước và gia đình nhưng số lượng được thụ hưởng đang biến mất dần. Ví dụ như, những người nghỉ hưu, đã bị đuổi khỏi nhà dưỡng lão vì chính sách khắc khổ, và những mái nhà đã bị vùi dập bởi đói nghèo phải nhận họ lại bởi vì, trớ trêu thay, tiền lương hưu của những người già – vốn đã đạm bạc nay còn giảm xuống nhanh chóng vì những cắt giảm – dù sao cũng có thể giúp cho tình hình tài chính của gia đình. Nhiều cụ ông cụ bà đang trả nợ nhà của con cháu họ với tiền lương hưu nhà nước! Những ngân hàng và chính phủ theo đuổi chính sách tàn bạo là nếu người nào chỉ thiếu hụt một vài lần trả nợ – thường là kết quả của mất việc làm – thì sẽ bị đuổi khỏi nhà. 350,000 người Tây Ban Nha đã ở hoàn cảnh này trong suốt 4 năm qua. Điều này có nghĩa là hệ thống ngân hàng Tây Ban Nha đã thực sự theo đuổi chính sách tương tự như trong tai họa nợ nhà đất nguy cơ cao, thứ đã kích hoạt sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng trên thế giới và mang tới cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Chính điều đó khiến cho những ngân hàng và chính phủ ở đây cực kì mất tín nhiệm.
Kết quả là cuộc đấu tranh của giai cấp lao động Tây Ban Nha đã thêm mãnh liệt và được thể hiện qua nhiều cuộc chiến, với tột đỉnh là một chuỗi những cuộc tổng đình công quyết liệt mà hàng triệu người đã làm nghẹt những đường phố từ Madrid cho tới Barcelona hay Valencia. Một trong những nét tiêu biểu thời kì sau cuộc bầu cử năm 1936 – đã đưa chính phủ của Mặt trận bình dân lên nắm quyền và cuộc Nội chiến nổ ra vào tháng 7 năm đó – chính là mỗi thành phố đều trải qua cuộc tổng đình công của riêng nó và một số nơi thì nhiều hơn một cuộc. Điều đó là dấu hiệu không thể sai lầm rằng giai cấp lao động đã chuẩn bị để phản kháng lại sự chuẩn bị cho cuộc Nội chiến của đám tư bản và quân đội Tây Ban Nha. Tây Ban Nha giờ đây chưa ở thời điểm này, nhưng giai cấp lao động- lực lượng đa số áp đảo trong xã hội- đang biểu thị sự phản đối gánh lấy gánh nặng của cuộc khủng hoảng không phải do họ gây ra này thông qua các cuộc đình công. Cuộc đấu tranh của công nhân Tây Ban Nha không nghi ngờ gì đã giúp đỡ, củng cố tinh thần cho công nhân Hi Lạp trong cuộc chiến chống lại chính sách khắc khổ của họ.
Vấn đề dân tộc
Cùng lúc này, cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm sống lại những vấn đề dân tộc không chỉ ở Tây Ban Nha mà còn những nước khác ở châu Âu: Scotland, Bỉ và một số nước khác. Cả những nơi mà vấn đề dân tộc có vẻ đã được giải quyết, nó có thể trỗi dậy trở lại như là một hệ quả của cuộc khủng hoảng. Ngay cả ở Ý cũng có thể có vấn đề này. Ví dụ như vùng Alto Adige / Nam Tyrol trước thuộc Áo có thể thấy sự trỗi dậy trở lại của những phong trào dân tộc, có khả năng cuối cùng dẫn tới sự li khai hoàn toàn.
Sẽ là bất khả thi trong những điều kiện như thế để chúng ta có thành công nếu không có một lập trường đúng đắn về vấn đề dân tộc. Nói chung, chúng ta bảo vệ những quyền lợi dân tộc của tất cả những dân tộc bị đàn áp. Nhưng điều này không hề có nghĩa là ủng hộ chủ nghĩa dân tộc của tư bản mà mục tiêu của nó là chia rẽ giai cấp lao động. Thật vậy, một nhiệm vụ sống còn của người Marxist là lột mặt nạ những tên theo chủ nghĩa dân tộc tư sản trên mọi hình thức lợi dụng những nguyện vọng dân tộc chính đáng của nhân dân để củng cố địa vị của chúng. Nền độc lập trên cơ sở CNTB sẽ không thể giải quyết được dù chỉ một trong số những vấn đề mà giai cấp lao động phải đối mặt; chỉ thông qua sự thay đổi XHCN và tư tưởng của một liên bang XHCN mới có thể thực hiện được nguyện vọng quốc gia, dân tộc của những nhân dân bị áp bức.
Catalonia là một trường hợp điển hình mà chính trị gia tư bản Mas và đảng dân tộc chủ nghĩa của hắn ta CiU (Hội tụ và liên đoàn) vừa qua đã cố hùa theo phong trào ủng hộ độc lập và cố gia tăng số phiếu trong những cuộc bầu cử sắp tới. Lúc trước khi có sự trỗi dậy của phong trào dân tộc, hắn ta ủng hộ chương trình khắc khổ dẫn tới sự đối đầu nảy lửa với giai cấp lao động Catalonia. Vừa qua là một thất bại thảm hại của CiU, mất 12 ghế trong bầu cử, trong quá trình quần chúng hướng về phía cánh tả, với sự nổi lên đáng kể của CUP – một lực lượng chống tư bản và ủng hộ độc lập mới. Nhiệm vụ xây dựng một mặt trận thống nhất của các tổ chức công nhân và cánh tả bắt đầu từ một cuộc đấu tranh thống nhất chống lại chính sách khắc khổ, dựa trên cơ sở ủng hộ quyền tự quyết và cuộc đấu tranh cho một liên bang XHCN của người dân ở bán đảo Iberia trên cơ sở tự do và tự nguyện, có một tầm quan trọng đặc biệt trong tình hình mới này. Sự ủng hộ với tư tưởng li khai còn phải tùy vào thời điểm và hoàn cảnh cụ thể. Xứ Basque, một xứ đã chứng kiến phong trào dân tộc lớn nhất trong quá khứ giờ dường như còn đi sau Catalonia về ý tưởng một sự li khai lập tức và hoàn toàn.
Nhiệm vụ tạo dựng một cơ sở tham khảo tình hình riêng ở từng đất nước cho chủ nghĩa Marx là một trong những nhiệm vụ cốt yếu nhất của CWI. Điều này có liên hệ với sự thành lập những đảng Marxist thực thụ bên trong những tổ chức quy mô rộng hơn của giai cấp lao động nếu có. IU (United Left – Cánh tả thống nhất) tỏ ra là niềm hi vọng tốt nhất ở Tây Ban Nha để thực hiện điều này. Tuy nhiên, nó đã dịch chuyển về cánh hữu gần đây, nhưng dẫu sao cũng còn có thể là một phương tiện cho cuộc đấu tranh của giai cấp lao động ở phía trước. Tây Ban Nha vẫn là đất nước có tầm quan trọng đặc biệt cho sự thành công của CWI trong phong trào công nhân ở châu Âu
Bồ Đào Nha
Bồ Đào Nha cũng là trường hợp tương tự. Sự đối lập bùng nổ và những sự phản kháng của quần chúng với hơn 600,000 người xuống đường cùng một cuộc diễu hành tới phủ tổng thống khi mà chính quyền nghĩ rằng có thể tuyên bố chính sách khắc khổ man rợ và người dân sẽ ngoan ngoãn chấp nhận. Cuộc biểu tình bước đầu đã khiến chính quyền phải lùi bước. Tuy nhiên, chính quyền đã tiếp tục với chương trình khắc khổ và rồi đã châm ngòi sự căm phẫn của quần chúng với những đòi hỏi cho một cuộc tổng đình công nữa. Hơn nữa, truyền thống của cuộc cách mạng Bồ Đào Nha 1974 đang trong quá trình hồi phục. Một điều rất đáng kể là binh lính, bao gồm cả một số sĩ quan đã tham gia vào những cuộc biểu tình đại chúng phản đối chính quyền. Dòng lịch sử đã bị đứt đoạn bởi sự đẩy lùi những thành tựu đã đạt được của cuộc cách mạng 1974, đặc biệt là trong những năm 1980 và 1990, đang được nối lại bởi một thế hệ mới. Chúng ta phải đến với họ và đưa họ vào hàng ngũ của CWI.
Ý
Ở Ý, sự mất uy tín và gần như tan rã của phái trung hữu và trung tả, kể cả đảng của Berlusconi có nghĩa là giới tư sản Ý không có được một công cụ chính trị vững chắc để cầm quyền. Berlusconi trông có vẻ sẽ không hồi phục được sau một loạt những bản án mới nhất và đảng của ông ta có thể bị xẻ ra từng mảnh. Đảng Dân chủ đang bị rúng động bởi các vụ tai tiếng và đấu đá quyền lực trong giới lãnh đạo. Một sự chia rẽ đang diễn ra trong đảng Italia dei Valori(Các giá trị nước Ý) – đảng dân túy của cựu quan tòa Antonio Di Pietro. Khoảng trống hiện hữu đang được phần nào lấp lại bởi diễn viên hài Beppe Grillo và phong trào 5 Sao của ông ta – đã đạt được 20% phiếu bầu ở địa phương nó tranh cử. Tuy nhiên, phong trào của ông ta không phải là trò đùa; ông ta đã bị ép phải đưa ra một chương trình, với một số những đòi hỏi khá là cấp tiến trong tình hình của Ý hiện tại, mặc dù vậy ông ta không nói một từ nào về tiền lương và quyền lợi của công nhân. Đương nhiên, nó không đại diện cho một nỗ lực thực sự để tạo dựng một phong trào công nhân đại chúng nhưng nó là phản ánh cho tính dễ biến động của tình hình và sự thất vọng vì chưa có một đảng như thế tồn tại ở Ý. Tre đã già và đang chết nhưng măng thì còn chưa mọc. RC(Đảng Cộng sản tái lập) gần như không còn, một cuộc thảo luận về sự cần thiết của một đảng cánh tả mới đang tiến triển nhưng tại thời điểm này không có một lực lượng thực sự nào bắt rễ trong giai cấp lao động có thể lấp đầy khoảng trống bên phía cánh tả. Đồng chí của chúng ta đã rất thành công trong việc duy trì và mở rộng tổ chức trên phạm vi quốc gia có thể đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là với gốc rễ mọi người đã xây dựng trong các công đoàn, trong việc xây dựng một bộ khung cho một đảng công nhân đại chúng và cách mạng mới. Chúng ta không bao giờ nên quên những truyền thống cách mạng vĩ đại ở ý mà so sánh với những nước lớn ở châu Âu, chỉ đứng sau nước Pháp.
Chính quyền của Mario Monti đã gặp sự thành công tương đối trong cố gắng tấn công và làm xói mòn mức sống của người lao động, tuy nhiên hắn ta vẫn chưa hoàn toàn thành công trong việc tiêu diệt “Điều 18”của hiến pháp, chất chứa những thành tựu thiêng liêng của những phong trào công nhân trong quá khứ. Khoảng nợ công 2 ngàn tỷ euro là cao nhất châu Âu nếu so tỉ lệ với GDP chỉ đứng sau Hi Lạp. Điều kiện sống đang bị cắt giảm, thất nghiệp leo thang và đối với thanh niên thì mọi thứ không khác là bao so với Hi Lạp hay Tây Ban Nha. Có một sự thù địch càng lớn đối với chính sách khắc khổ, được biểu thị ở những cuộc biểu tình gần đây. Ở nhiều nhà máy( Finantieri, ILVA, Alcoa) phản ứng của công nhân trước lời đe dọa mất việc là rất mạnh mẽ. Giới trẻ có vẻ rất quyết tâm đấu tranh. Mặt khác, sự thiếu vắng đối lập về chính trị đối với chương trình của Monti, sự yếu kém của các công đoàn và áp lực của tình hình khách quan lên những tầng lớp quan trọng của giai cấp lao động đang ngăn cản một sự phản ứng rộng rãi hơn để chống lại cắt giảm và những biện pháp khắc khổ và những cuộc đấu tranh đã diễn ra như những tiếng súng trong sự im lặng. Bởi vậy những đồng chí của ta ở Ý chiến đấu để ủng hộ những cuộc đấu tranh này và cũng nỗ lực tránh sự cô lập cho các phong trào.
Thời gian mà tên “super Mario” tồn tại càng lâu, sự rộng rãi được đưa cho hắn lúc ban đầu – không phải của giai cấp lao động mà của lãnh đạo những tổ chức công nhân – sẽ càng bị xói mòn. Do vậy, hắn ta đối mặt với nguy cơ bị cho ra rìa về mặt chính trị hoặc một cuộc bầu cử mới sẽ phải diễn ra để cho hắn cơ hội đóng vai trò then chốt. Để chuẩn bị cho điều này, gã tư bản công nghiệp Luca Cordero di Montezemolo đã tập hợp một diễn đàn mà từ đó có thể dẫn tới một đảng, được ước tính là sẽ đưa cho Monti 15% phiếu bầu. Về phần chương trình, hắn ta tuyên bố tại cuộc tập hợp mở màn với hơn 7000 người tham dự ở Rome: “Không ai hỏi về những cam kết của tôi, và hôm nay tôi sẽ không đưa ra cam kết nào cả”. Hay nói một cách khác, chính thức mà nói thì “Tôi không ủng hộ gì cả!” nhưng thực tế là ủng hộ thêm những chính sách khắc khổ. Đảng của Monti được hi vọng sẽ có khả năng thành lập được một liên minh cầm quyền sau kì bầu cử, có thể bao gồm cả đảng cựu-Cộng sản và đảng Dân chủ, hiện đang nằm ở 25% trong các cuộc thăm dò ý kiến
Hiện tượng sự xuất hiện như nấm bất ngờ của những nhân vật và đảng phái với nổi lên ở cấp độ quốc gia đã được lặp lại ở nhiều nơi khác không chỉ riêng ở Ý. Sự mất uy tín của các đảng lớn, kể cả những đảng cựu-dân chủ xã hội đã cho ra đời những đảng phái chỉ dựa vào một vấn đề duy nhất, như đảng Hành động Y tế quốc gia tại Anh – bao gồm phần lớn là nhân viên hệ thống y tế thường sẽ ủng hộ đảng Lao động – đứng lên bảo vệ Dịch vụ Y tế quốc gia (NHS). Sự thật là một đảng như vậy có thể hình thành chính là lên án mạnh mẽ sự thiếu lòng tin và ủng hộ cho những đảng phái hiện hữu. Sự thể hiện quái tởm và gần đây nhất là ở Nhật với đảng dân tộc chủ nghĩa Mặt trời mọc đã mọc rồi lặn chỉ trong vòng 4 ngày như nhận xét: “một cuộc đời còn ngắn hơn là thứ biểu tượng cho sự nhất thời kinh điển ở Nhật Bản là hoa anh đào”
Châu Á
CNTB ở Nhật, như phần còn lại của thế giới, hiện đang phải đánh vật với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất kể từ 1945. Đã trải qua thập kỉ thất bại những năm 1990 – một vài người cho rằng là hai thập kỉ thất bại – Nhật Bản đang phải đối mặt với suy thoái mới, trên thực tế là sự xấu đi của suy thoái vốn có, với gần như 1% sụt giảm trong sản xuất trong quí 3 năm nay, sự sụt giảm lớn nhất kể từ khi sóng thần tấn công vào năm 2011. Ngay cả thủ tướng Nhật là Noda đã mô tả sự co lại này là “nghiêm trọng”. Điều này giáng một đòn mạnh vào CNTB Nhật bởi vì mặc cho khoản nợ khổng lồ của nó – đạt mức 250% GDP hiện nay – có vẻ như nó đã hồi phục từ thời kì khó khăn năm 2010 với gấp đôi mức tăng trưởng của G10 (nhóm 10 nước công nghiệp phát triển nhất). Bầu cử mới đã được kêu gọi nhưng nó sẽ không giải quyết được bất cứ vấn đề cơ bản nào của CNTB ở Nhật. Chúng ta có thể thấy ở phía trước một sự nổi dậy trở lại của giai cấp lao động Nhật thông qua những công đoàn và một đảng chính trị đại chúng mới.
Ấn Độ, cùng với các nước khác ở châu Á, đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới với tăng trưởng đang sụt giảm từ mức siêu tốc trung bình 9% trong quá khứ giờ chỉ cao nhất là 5.5%. Những vấn đề ở Ấn Độ là rõ ràng. Ngoài sự nghèo đói đầy áp bức như là một thực tế tàn nhẫn cho phần lớn dân chúng, đặc biệt là ở hàng loạt những làng mạc nông thôn, sau cả một thời kì “Ấn Độ tỏa sáng” thì giờ đây người dân phải níu kéo từng chút một với tình hình kinh tế chậm lại . Điều này kéo theo sau nó sự đói kém và cắt điện, trong thời gian qua đã có một sự cố về điện khiến hơn 600 triệu người Ấn Độ phải sống thiếu điện trong cuộc mất điện lớn nhất trong lịch sử. Chính quyền đã phản ứng như thế nào? Đề xuất tăng giá xăng! Thực tế là, thời kì kinh tế “Ấn Độ tỏa sáng” giờ đang biến thành thời kì “của cuộc lừa bịp về kinh tế vĩ đại nhất” [Jayati Ghosh, báo Guardian]. Chính quyền dẫn dắt quốc hội của Manmohan Singh mở cửa CNTB tự do mới đầy hoang dã đã giẫm nát những biện pháp an toàn bảo vệ cho công nhân và người nghèo – nói một cách ngắn gọn là đưa ra một hình thức khổng lồ của CNTB thân hữu. Gia đình “tối cao”, nhà Gandhis, đã tham gia bí mật vào những vụ tai tiếng và những trò lừa đảo có hậu quả là sự mất mát tài sản công cực lớn, khiến cho cung cấp nguồn lợi công cho những điều tối cần thiết của nhân dân, đặc biệt là người nghèo, bị cắt xén. Kết quả là một làn sóng dâng cao chống tham nhũng, tăng giá cả và những chính sách tự do mới như sự đưa vào những ông lớn bán lẻ như Walmart và Tesco, được cho là để kéo lại sự tăng trưởng. Điều này đã vấp phải một cuộc tổng đình công 24 tiếng ở nhiều thành phố khắp đất nước vào tháng 9. Phe đối lập, bao gồm những người không có đất, đã đưa cơ hội cho thành phần chủ nghĩa Mao tạo dựng một cơ sở ở những vùng nông thôn. Sự dịch chuyển về cánh hữu của lãnh đạo những đảng “Cộng sản” có nghĩa là sự thiếu vắng một tiếng nói chính trị cho giai cấp lao động khổng lồ ở Ấn Độ. Sự bắt đầu của rối loạn và chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Ấn Độ (Marxist) cũng là một dấu hiệu cho thấy trong số giai cấp lao động và thanh niên, số lượng đang tìm kiếm một lựa chọn XHCN rõ ràng sẽ gia tăng nhanh hơn. Nhiệm vụ của chúng ta vẫn sẽ là tham dự và kiếm được một lực lượng đủ để có thể cho phép chúng ta đóng một vai trò cốt yếu trong sự thành lập một đảng mới, để trở thành cơ sở tham khảo cho tất cả những công nhân sẵn sàng đấu tranh.
Ngược hẳn với Ấn Độ, Pakistan đã đối mặt với những yếu tố của sự phân hóa và vỡ vụn của xã hội với kết quả là một tình thế khủng khiếp đối với quần chúng. Xu hướng mạnh mẽ “Taliban hóa” là một thước đo của quá trình này. Giai cấp lao động vẫn chưa có khả năng trỗi dậy như là một lực lượng dẫn dắt với sự thay thế độc lập cho cuộc khủng hoảng đang nhấn chìm đất nước. Những nét đặc trưng của phản cách mạng đang chiếm lĩnh tình hình hiện tại, tuy nghiên không phải ở dạng một cuộc can thiệp quân sự công khai. Có những tính chất củng cố chủ nghĩa dân tộc ở vùng Sind và những tỉnh khác. Những lực lượng “cánh tả” nói chung, ngoài những đồng chí của chúng ta ra, đều im lặng ở thời điểm này. Hiện tại đang có một làn sóng tuyên truyền thân thị trường, thân chủ nghĩa tự do. Cuộc bầu cử được dự định vào năm sau có khả năng sẽ thấy sự suy yếu của PPP(đảng Nhân dân Pakistan) và sự củng cố của PML (Liên đoàn Hồi giáo Pakistan) và những đảng tôn giáo khác. Đối mặt với tình hình như vậy, nhiệm vụ của những người Marxist là chuẩn bị những phân nhánh có nhận thức chính trị cao nhất và có tính chiến đấu nhất của công nhân và thanh niên sẵn sàng cho một tình hình thuận lợi hơn sẽ dần hiện ra trước mắt. Các đồng chí của ta đã đóng một vai trò anh dũng trong việc đấu tranh chống lại phản cách mạng và bảo vệ tư tưởng của XHCN
Sri Lanka, về mặt lịch sử, là một căn cứ sống còn của CWI. Những thành tựu to lớn của phân nhánh anh hùng của chúng ta ở Sri Lanka và nòng cốt của họ là đã bảo toàn đảng của ta trong một trong những nơi có tình hình khác quan khó khăn nhất, kể cả trong khu vực lẫn trên phạm vi thế giới. Cuộc nội chiến 30 năm, đã không thất bại trong việc phân cực dân chúng trên phương diện sắc tộc, đã cản bước phát triển và phổ biến chương trình xã hội của chúng ta. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn kiên định đưa ra một quan điểm có tính nguyên tắc về tất cả những vấn đề liên quan tới giai cấp lao động, kêu gọi sự đoàn kết về những vấn đề dân tộc, bảo vệ quyền lợi của người Tamil, cùng lúc đó phản đối phương pháp của Những con hổ Tamil. Một lực lượng du kích dựa trên 18 đến 20% dân số và hơn nữa là sử dụng những biện pháp khủng bố bừa bãi không thể nào có hi vọng thắng trên mặt trận quân sự chống lại một chính quyền dựa trên 80% dân số. Đặc biệt là khi chính quyền này đang tranh thủ sự ủng hộ của các cường quốc – Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan và Mỹ – mỗi nước đều có mục tiêu riêng khi ủng hộ chính quyền đẫm máu của Rajapaksa. Không có sự ủng hộ này, đặc biệt là cung cấp cho chính quyền một sự ưu thế quân sự tuyệt đối, thật khó để quân đội Sri Lanka một mình có thể đạt được chiến thắng hoàn toàn vào tháng 5 năm 2009.
Sự kết thúc tàn bạo của cuộc chiến, với sự tàn sát bừa bãi những người Tamil vô tội và xử tử lãnh đạo của những con hổ Tamil ngay cả khi hắn ta đã đầu hàng đã khiến công luận thế giới phải ghê tởm. Sự thật đã được phơi bày bởi chính Liên hợp quốc là những đại diện của nó đã đứng nhìn khi những điều này xảy ra mặc cho sự thật là lực lượng này được cho là trung gian giữa những người còn sống sót của những con hổ Tamil và lực lượng quân đội Sri Lanka. Đang có một sự thừa nhận quốc tế ngày càng rõ rằng tổng thống và anh em của ông ta, bộ trưởng quốc phòng, là tội phạm chiến tranh. Như Pinôchê, Rajapaksa bị đe dọa với một lệnh bắt quốc tế về tội ác chiến tranh nếu như ông ta tiếp tục với chuyến thăm Luân đôn vừa qua. Điều này cũng có tác động đến những tên tư bản ủng hộ ông ta, giờ đang lo ngại những tên cầm đầu chính quyền sẽ phải ra tòa vì những tội ác này cùng lúc sự bùng nổ kinh tế ở Sri Lanka đang mất dần động lực.
Ngay cả sự tăng trưởng ở mức 6% cũng không ngăn chặn được sự giận dữ của quần chúng ngày càng tăng với vấn đề tăng giá sinh hoạt, giờ đang châm ngòi cho những cuộc đình công và biểu tình. Ngay cả khi đã trút bỏ gánh nặng là chiến tranh đã chấm dứt thì những biện pháp đàn áp của chính quyền – với những đội tử hình sử dụng chiếc “xe tải trắng” đầy kinh hãi để bắt những người đối lập và giết họ – đã vấp phải sự phản đối kịch liệt. Chính quyền đang muốn chiếm làm thuộc địa vùng phía bắc và đông Sri Lanka với những gia đình người Sinhala có quan hệ với quân đội để đưa người tới hất cẳng những cư dân địa phương người Tamil. Cùng lúc đó, sự kết thúc của chiến tranh đã dẫn tới vấn đề về của những lập trường chính trị trước đó của những tổ chức như JVP(Mặt trận giải phóng nhân dân), đã dẫn tới một sự chia rẽ và thành lập đảng Xã hội Tiền phương. Chúng ta đã thảo luận với họ nhưng chưa đạt được sự đồng thuận về quan điểm chính trị về những vấn đề cốt yếu như vấn đề dân tộc, chương trình và những sách lược có thể dùng để lật đổ chính quyền Rajapaksa. Ngay cả những nhà bình luận tư bản cũng nhận thấy tổng thống và đội ngũ cầm quyền đang hướng về hình mẫu là khu vực đông Á. Theo tờ Thời báo tài chính: “Khi không còn những cản trở trên đường phát triển. Nói cách khác, vứt bỏ mọi sự tỏ vẻ có một nghị viện thực sự và tiến hành hình mẫu kiểu Singapore – một nền độc tài với lớp vỏ ngoài “dân chủ” “
Điều này hứa hẹn sẽ va chạm với quần chúng Sri Lanka và truyền thống dân chủ của họ, đặc biệt là thông qua những công đoàn, quyền bầu cử v.v… Không phải ngẫu nhiên mà đã có những cuộc biểu tình chống lại những cáo buộc vi phạm của thành viên tòa tối cao và thẩm phán cùng luật sư đã tẩy chay những phiên tòa sau vụ tấn công một thẩm phán, tất cả chỉ ra những nghi ngờ về việc chính quyền đang đi theo con đường độc tài. Những giảng viên đại học cũng đã tiến hành đình công kéo dài để phản đối những sự tấn công vào giáo dục. Cùng lúc đó, chính quyền này là một chính quyền quân sự hóa cao nhất trong khu vực. Thành phần chóp bu của quân đội đang hành động như những đồng cấp ở Pakistan trong sự thèm khát ngày càng lớn những sân gôn, trường đua và trung tâm thương mại. Điều này sẽ châm ngòi cho một cuộc nổi dậy chống lại chính quyền và cũng mở ra cơ hội cho tổ chức chúng ta phát triển, cùng với những tổ chức khác, có thể tập hợp những kinh nghiệm cách mạng vĩ đại của quần chúng Sri Lanka để tạo dựng một lực lượng mở đường cho sự thành lập XHCN trên quốc đảo này, cùng với quần chúng ở Ấn Độ có thể đưa đến một liên bang XHCN ở khu vực.
Một chính quyền khác mà dường như trong quá khứ đã trơ ra trước những sự thay đổi là Malaysia. Nó vẫn đang là một “ngôi sao” của CNTB với mức tăng trưởng 5.4% trong nửa cuối năm nay. Trong cả năm 2012, mức tăng trưởng được ước đoán vào khoảng 4.6%, một kỉ lục nhỉnh hơn nếu so với các nước châu Á khác. Thị trường chứng khoán đạt mức cao kỉ lục và có vẻ như có một sự phát triển “thịnh vượng” ở thủ đô Kuala Lumpur. Tuy nhiên, một sự giảm tốc là không tránh khỏi ở Malaysia, bởi sự sụt giảm mức tăng trưởng ở Trung Quốc, quốc gia mà nước này lệ thuộc vào về mặt kinh tế như hầu hết các nước ở khu vực Đông Nam Á. Hơn nữa, Malaysia và cả châu Á sẽ không miễn nhiễm với những tác động của cuộc khủng hoảng ở vùng đồng Euro. Sự dễ tổn thương của Malaysia từ những cú sốc bên ngoài đã được thể hiện rõ khi giá dầu cọ – sản phẩm xuất khẩu chính của nước này – lao dốc bởi vì sự sợ hãi cung sẽ vượt cầu. Chính quyền sẽ bị buộc phải thắt chặt chi tiêu và sẽ gây tác động tới đời sống xã hội
Một cuộc bầu cử phải được tiến hành không trễ hơn tháng 4 năm 2013. Như những cuộc bầu cử trước đó, tiền mua chuộc đã được sử dụng bởi chính quyền. Điều này được dùng để đối phó với mối đe dọa từ phe đối lập Pakatan Rakyat (liên minh nhân dân) trong cuộc bầu cử tới. Liên minh cầm quyền đứng đầu bởi UMNO (Tổ chức quốc gia đoàn kết Malay) mất 2/3 đa số trong nghị viện lần đầu tiên trong cuộc bầu cử năm 2008. Chính vì thế có khả năng phe đối lập sẽ chiến thắng và điều này sẽ mở ra một tình hình hoàn toàn mới ở Malaysia. Đất nước này đã nằm trong tay liên minh cầm quyền kể từ khi giành được độc lập từ nước Anh vào năm 1963, để củng cố quyền lực nó đã dùng sự chia rẽ sắc tộc bằng cách sử dụng đa số người gốc Malay chống lại người gốc Trung Quốc và Ấn Độ. Chính sách nêu trên và tình hình kinh tế khó khăn hơn sẽ không ổn trong hiện tại. Trong giai đoạn mới này, những cơ hội lớn sẽ đến với phân nhánh CWI ở đây, tuy nhỏ nhưng là một nhóm những đồng chí rất ấn tượng. Chúng ta đang cố hoạt động trong những tổ chức rộng hơn để mở mang tầm ảnh hưởng của mình.
Hơn thế nữa, chúng ta phải mang tư tưởng của mình tới cả khu vực, đặc biệt là Indonesia và Philippin, đây là một nhiệm vụ được những đồng chí ở Malaysia và Úc đồng tâm thực hiện cùng sự giúp sức của các đồng chí khác ở trong khu vực. Như ở châu Phi, tạo dựng một nền móng vững chắc ở khắp châu Á là một mục tiêu tối thượng của CWI. Chủ nghĩa đế quốc Mỹ đã chỉ rõ rằng châu Á là một khu vực chìa khóa – còn quan trọng hơn cả châu Âu, về chiến lược và kinh tế – như chuyến thăm đầu tiên của Obama sau khi đắc cử là đến khu vực này. Điều này phần nào tái khẳng định sự đánh cược về kinh tế của đế quốc Mỹ vào khu vực này và cũng đồng thời như một lời cảnh báo đến Trung Quốc về sự quan trọng của những lợi ích quân sự chiến lược của Mỹ tại đây. Mỹ cảm thấy sự cần thiết của việc này bởi sự khẳng định quân sự của Trung Quốc thông qua cuộc đụng độ hải quân với Nhật Bản trước quần đảo tranh chấp không người ở. Kết quả của việc này và những cuộc đụng độ trước đây với Trung Quốc là Nhật Bản đang xây dựng lại quân đội vì lý do “duy nhất là phòng thủ”! Điều này có nghĩa là châu Á sẽ trở thành một sân khấu mới và nguy hiểm của xung đột quân sự với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc và khả năng nổ ra xung đột công khai, khi mà những thế lực tham gia sẵn sàng đối đầu với nhau, với vũ khí nếu cần thiết, để gia tăng ảnh hưởng, quyền lực và tham vọng kinh tế. Chúng ta phải phản công bằng sự nhấn mạnh tinh thần đoàn kết của nhân dân trong khu vực và thúc đẩy tư tưởng của một liên bang xã hội chủ nghĩa ở trong vùng.
Trung Quốc
Trung Quốc là người khổng lồ của châu Á, cường quốc thứ 2 thế giới sau Mỹ. Cách mà nó phát triển sẽ tạo ra một sự ảnh hưởng, có lẽ là quyết định, cho cả khu vực và thế giới. Và Trung Quốc chắc chắn đang ở một ngã rẽ, như giới cầm quyền thượng đẳng hiểu rất rõ. Cũng như nhiều nhóm cầm quyền trong lịch sử, đám này nhận thấy những căng thẳng đầy mâu thuẫn đang sưng lên từ bên dưới và không chắc chắn là làm sao để đối phó với chúng. Những học giả Trung Quốc mô tả tình hình hiện tại cho từ Economist là “bất ổn ở vùng gốc, chán ngán ở tầng giữa và vượt ngoài kiểm soát ở tầng đỉnh”. Nói cách khác, những nguyên liệu của một cuộc cách mạng đang nung nấu ở Trung Quốc tại thời điểm này. Mức tăng trưởng thần kì 12% đã là chuyện quá khứ. Nó như là một chiếc xe bị kẹt trong tuyết: bánh xe thì quay mà xe không thể tiến lên. Tăng trưởng có lẽ đã co lại chỉ còn khoảng 5% đến 7%. Chính quyền cho rằng đã có một sự “phục hồi” nhất định nhưng không mong chờ trở lại tăng trưởng 2 con số. Điều này sẽ tự động ảnh hưởng tới những quan điểm cho kinh tế thế giới. Một mức tăng trưởng trên 10% chỉ có thể đạt được khi đã bơm một lượng khổng lồ nguồn lực, có thời điểm đã đạt tới mức khổng lồ và không có tiền lệ là 50% GDP đầu tư vào công nghiệp. Điều này chính nó đã tạo ra những bất mãn: oán giận sự bất bình đẳng ngày càng cao và sự hủy hoại môi trường cùng với việc đất công bị chiếm phi pháp bởi những cán bộ tham lam.
Những điều trên và điều kiện ở những xưởng bóc lột tàn tệ trong nhiều nhà máy đã tạo ra sự chống đối mạnh mẽ từ dân chúng với 180,000 cuộc biểu tình công khai trong năm 2010 – và nó đã tăng lên trong những năm qua – so với ước tính chính thức là 40,000 trong năm 2002. Sự xóa bỏ bảo đảm việc làm ổn định và công kích nhằm vào hệ thống y tế và giáo dục đã châm thêm sự bất mãn. Điều này đã làm giới lãnh đạo phải đưa ra lại bảo hiểm y tế ít ỏi. Làm sao để đối phó với ngọn núi lửa chực chờ và con đường nào để đi cho nền kinh tế ám ảnh giới lãnh đạo Trung Quốc. Làng Wukan nổi dậy một năm trước và đã thành công trong việc chiến đấu một cuộc chiến dài hơi với cảnh sát để lấy lại đất đai đã bị cướp bởi bộ máy quan liêu địa phương. Đó chỉ là những triệu chứng của phần chìm của tảng băng ở Trung Quốc, một cuộc nổi dậy từ lòng đất có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Trong trường hợp này, quan chức địa phương đã rút lui nhưng những người tham gia biểu tình cũng không tiếp tục phong trào của họ. Có vẻ như sự việc này và nhiều vụ khác là “những cuộc nổi dậy nhỏ đang tiếp tục sục sôi khắp Trung Quốc” [Thời báo tài chính]
Nhiều nhân vật chính trong những cuộc biểu tình ngây thơ tin rằng nếu những quan lớn ở Bắc Kinh biết được mức độ tham nhũng, chúng sẽ can thiệp và giải quyết nó. Một thứ tương tự như vậy đã diễn ra ở Nga dưới thời chủ nghĩa Stalin. Quần chúng lúc đầu thường bỏ qua Stalin khỏi những trách nhiệm của tham nhũng mà ông ta “không hay biết”. Tất cả đều là tội ác của đội ngũ quan liêu địa phương chứ không phải của chính Stalin. Nhưng sự bắt giữ Bạc Hi Lai và xét xử vợ của hắn ta đã giúp xua đi những ảo tưởng trên. Ông ta đã bị tố cáo đã lạm dụng chức vụ để vơ vét một khối tài sản khổng lồ, nhận những khoản “hối lộ khủng” và thăng chức những người thân tín vào chức vụ cao. Bạc là thành viên của đội ngũ thượng đẳng – là con ông cháu cha của một lãnh đạo cuộc cách mạng Trung Quốc – bị tố cáo đồng lõa giết người, hối lộ và tham nhũng lớn. Điều này tự nhiên sẽ đưa tới câu hỏi làm sao hắn ta có thể thoát được trong chừng ấy thời gian. Trong thực tế, không phải vì những tội trên – mặt dù thực sự là như vậy – đã dẫn tới sự bắt giam và phiên tòa treo mà vì hắn đại diện cho mối hiểm họa với hàng ngũ thượng đẳng – bằng cách vượt ra khỏi ‘vòng tròn kì diệu’ này và tiến hành chiến dịch tranh cử vào bộ chính trị. Nguy hiểm hơn nữa là hắn ta đã khơi lại những phát biểu cấp tiến kiểu chủ nghĩa Mao, liên hệ với cuộc “cách mạng văn hóa”. Làm như vậy, hắn ta có thể đã vô tình phóng thích những lực lượng mà hắn không có khả năng kiểm soát, có thể sẽ đi xa hơn và đòi hỏi hành động chống lại sự bất công của chính quyền. Và ai biết được mọi chuyện sẽ kết thúc như thế nào?
Chính quyền Trung Quốc đang ở trong khủng hoảng. Nó đang bị chia rẽ bởi những bước đi kế tiếp – đặc biệt là liên quan tới nền kinh tế – sẽ phải chọn đường nào. Một con ông cháu cha bình luận trên tờ Thời báo tài chính một cách hung bạo: “Thời kì tốt nhất của Trung Quốc đã qua rồi và cả hệ thống phải được đại tu”. Những nhà bình luận tư sản trong những tạp chí như Economist, thời báo tài chính, thời báo New York v.v… gần đây đã dùng tới khái niệm chúng ta đã dùng để mô tả Trung Quốc là “Chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Chúng không thêm vào điều khoản mà chúng ta dùng: “tư bản nhà nước, với những nét đặc trưng”. Điều này cần thiết để tách chúng ta ra khỏi sự phân tích thô kệch của SWP và những nhóm khác khi đã mô tả một cách sai lầm nền kinh tế có kế hoạch trong quá khứ theo khái niệm đó. Có một sự đồng thuận hoàn toàn trong hàng ngũ của chúng ta về hướng đi của Trung Quốc. Khu vực tư bản đã lớn mạnh bằng sự thu hẹp của những tập đoàn nhà nước trong quá khứ. Nhưng gần đây, đặc biệt là từ gói kích thích kinh tế trong năm 2008, đã có một sự tái tập trung nhất định với quyền lực kinh tế có xu thế tập trung nhiều hơn ở khu vực nhà nước, nhiều đến mức những tập đoàn nhà nước đang nắm giữ tài sản có giá trị tới 75% tổng GDP. Mặt khác, báo Economist mô tả Trung Quốc theo lối sau: “Những chuyên gia bất đồng quan điểm về việc nhà nước đang nắm giữ một nửa hay 1/3 sản lượng kinh tế, nhưng đồng ý rằng nó thấp hơn 2 thập kỉ trước. Trong nhiều kể từ cuối những năm 90 những tập đoàn nhà nước tỏ ra đang ở thế rút lui. Số lượng giảm (đến khoảng 114,000 trong năm 2010, trong số đó có 100 công ty lớn nhất quốc gia được điều hành tập trung) và mức sử dụng lao động giảm. Nhưng hiện tại, tuy số lượng công ty tư nhân tiếp tục tăng nhưng sự rút lui của nhà nước đã chậm lại và trong một số ngành, quay ngược lại tăng lên”.
Rõ ràng là một cuộc thảo luận dữ dội đang diễn ra sau những cánh cửa đóng kín trong bè lũ thượng đẳng. “Phe cải cách” muốn một chương trình quyết đoán hơn để giải thể khu vực nhà nước và xích lại gần hơn với “thị trường”. Chúng đang đề xuất phá bỏ những chướng ngại còn tồn tại đối với sự tham gia và hoạt động của tư bản nước ngoài. “Nhà lãnh đạo” mới Tập Cận Bình, mặc cho câu thần chú hình thức là “CNXH với tính chất Trung Quốc” được đồn là ủng hộ phe cải cách. Mặt khác, những người đề xuất một sự mở cửa cả trong nền kinh tế cùng với những cải cách “dân chủ” hạn chế, có vẻ như đã bị cho ra rìa. Những nghiên cứu về cách mà những nền độc tài trong quá khứ như ở Hàn Quốc đã khống chế sự “chuyển tiếp lạnh” đến “nền dân chủ”. Những điều đó đã diễn ra khi sự phát triển bùng nổ chưa cạn kiệt và cả trong bối cảnh của những phong trào đại chúng. Cuộc “chuyển tiếp” của Trung Quốc được đề xuất giữa một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Giới cầm quyền Trung Quốc được đồn rằng đang học tập ngấu nghiến vai trò của Gốp-ba-chốp ở Nga. Hắn ta bắt đầu với ý định “cải tổ” hệ thống và kết thúc bằng việc trông coi sự giải thể của nó. Những sự cải tổ nghiêm trọng từ phía trên sẽ kích hoạt cách mạng từ phía dưới ở Trung Quốc hiện nay. Cũng không thể loại trừ khả năng một thời kì của “nền dân chủ” rất yếu kém – nhưng với quyền lực vẫn nằm trong tay những lực lượng cũ, như ở Ai Cập ngày nay với quân đội và phong trào Huynh đệ Hồi giáo( Muslim Brotherhood) nắm quyền – có thể sẽ thành lập sau một cuộc chấn động cách mạng ở Trung Quốc. Nhưng điều đó chỉ là một màn dạo đầu cho một trong những phong trào đại chúng lớn nhất trong lịch sử. Tổ chức của chúng ta đã đạt được những thành tựu diệu kì và chúng ta phải xây dựng trên cơ sở đó để chuẩn bị cho những sự kiện vĩ đại trước mắt.
Mỹ Latinh
Mỹ Latinh đã không ở tuyến đầu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời gian gần đây. Sự tăng trưởng kinh tế của các nước lớn như Braxin, Ác-hen-ti-na, Chi lê là dựa trên xuất khẩu khoáng sản sang Trung Quốc và các nước châu Á khác. Như Braxin đã chỉ ra, sự giảm tốc của kinh tế các nước đó giờ đang kéo tụt những nền kinh tế ở châu Mỹ Latinh. Sự phụ thuộc ngày càng cao vào xuất khẩu hàng hóa như đậu nành, đồng, ga v.v… đã làm suy yếu nền móng công nghiệp ở Braxin và nhiều nước khác. Họ sẽ bước vào một giai đoạn mới của khủng hoảng kinh tế với một nền móng kinh tế nội địa yếu hơn.
Làn sóng đình công quét qua Braxin khi nền kinh tế giảm tốc cũng đã phản chiếu ở các nước như Ác-hen-ti-na và ngay cả Bôlivia. Trong thời gian kinh tế tăng trưởng, công nhân có thêm sự tự tin bởi vì không có sự đe dọa của thất nghiệp hàng loạt. Công nhân ở Braxin đòi hỏi được chia phần của họ từ những khoản lợi nhuận. Sự thay đổi tình hình kinh tế ở Mỹ Latinh đã mở ra một giai đoạn đấu tranh mới của quần chúng. Cuộc tổng đình công gần đây ở Ác-hen-ti-na đã minh họa sống động cho bước phát triển này. Chilê, vốn là hình mẫu kinh tế, đã rung chuyển trước cơn chấn động xã hội của phong trào sinh viên và thanh niên. Chính nó đã biến đổi tình hình xã hội và chính trị ở đó.
Đã có một cuộc khủng hoảng lan rộng của những đảng phái cánh hữu truyền thống của CNTB ở nhiều nước. Giai cấp thống trị ở nhiều nước đã bị buộc phải dựa vào những phong trào “dân tộc chủ nghĩa cấp tiến” hoặc những đảng công nhân cũ như PT(đảng Công nhân) ở Braxin. Tuy nhiên. Cristina ở Ác-hen-ti-na và Dilma đang bị buộc phải tấn công giai cấp lao động khi cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu tấn công Mỹ Latinh. Trong khi PSOL(đảng XHCN và Tự do) tiếp tục tồn tại và là một khu vực quan trọng đối với hoạt động của chúng ta, nó vẫn còn là một câu hỏi liệu lực lượng này sẽ phát triển như thế nào. Những thành tựu đạt được của đảng này trong cuộc bầu cử vừa qua đã mở ra một cuộc khủng hoảng mới trong nội bộ vì cánh hữu của đảng đã chọn kí kết thỏa thuận với những đảng tư sản.
Một giai đoạn mới đã mở ra với các nước vùng núi Andes. Chiến thắng trong cuộc bầu cử của Chavez ở Venezuela, điều chúng ta chào mừng, không có nghĩa là một sự tiếp nối đơn giản của tình hình dưới những chính quyền trước đó của Chavez. Trong khi công nhân và quần chúng tập hợp quanh Chavez để đánh bại đám tư sản cánh hữu, đang có một sự bất bình và giận dữ ngày càng lớn đối với những yếu kém của chính quyền Chavez. Một giai đoạn mới của đấu tranh và phân biệt trong chính phong trào ủng hộ Chavez (Chavista) sẽ mở ra, cho lực lượng nhỏ của chúng ta, đang chiến đấu trong sự cô lập, những cơ hội mới để đạt được những thành tựu quan trọng. Chính quyền Morales ở Bôlivia đã ngày càng tiến về phía cánh hữu kể từ năm 2008 và đã tấn công một vài nhánh của giai cấp lao động. Ở cả Venezuela và Bolivia, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chúng ta là xung kích ra lời kêu gọi tạo dựng một phong trào độc lập và những tổ chức của công nhân và thanh niên. Những sự kiện ở châu Mỹ Latinh sắp tới sẽ cho chúng ta cơ hội để củng cố và xây dựng lực lượng.
Viễn cảnh
4 đến 5 năm trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tàn khốc, chúng ta có thể kết luận rằng có những viễn cảnh thuận lợi cho sự lớn mạnh của CWI.Với sự khẳng định cần thiết rằng ý thức – là quan điểm của giai cấp lao động – chưa bắt kịp với tình hình khách quan, nó vẫn có thể được mô tả là tiền cách mạng, đặc biệt là khi nhận xét trên phạm vi thế giới. Lực lượng sản xuất không tiến lên mà đình trệ và suy tàn. Điều này đi kèm với sự phân hóa xã hội nhất định của những phân nhánh của giai cấp lao động và người nghèo. Cùng lúc đó, những tầng lớp mới của giai cấp lao động cũng như một phần của giai cấp trung lưu đang được hình thành – vô sản hóa – thúc ép phải sử dụng những phương pháp của giai cấp lao động như đình công và tổ chức trong những công đoàn. Sức mạnh tiềm tàng của giai cấp lao động vẫn còn nguyên, mặc dù bị cản trờ và suy yếu bởi sự lãnh đạo cánh hữu của các công đoàn cũng như bởi các đảng dân chủ xã hội và đảng cộng sản.
Chúng ta đã giữ vững và trong một số trường hợp đã củng cố mạnh mẽ vị thế của chúng ta về mặt thành viên và đặc biệt là sự gia tăng ảnh hưởng trong phong trào lao động. Nhưng có rất nhiều công nhân đồng tình và đang theo dõi chúng ta, và trên cơ sở những sự kiện và hoạt động của ta mà có thể gia nhập. Chúng ta ngẩng cao đầu chuẩn bị cho những sự bứt phá quan trọng – kể cả sự nhảy vọt trong số thành viên – ở một số quốc gia, như được chỉ ra bởi những phân tích ở trên. Chúng ta phải đối mặt với tình hình bằng cách rèn luyện và chuẩn bị đội ngũ nòng cốt của chúng ta cho thời kì náo động tới khi mà những cơ hội to lớn sẽ xuất hiện để làm vững chắc những tổ chức và đảng phái của CWI và toàn thể Quốc tế.